Văn chương Tự lực văn đoàn ở miền Nam trước 1975 (TS. Lê Ngọc Thúy)

 

VĂN CHƯƠNG TỰ LỰC VĂN ĐOÀNTRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ GIÁO DỤC

Ở ĐÔ THỊ MIỀN NAM 1954-1975

TS. LÊ NGỌC THUÝ

     Hơn hai phần ba thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày ra đời của Tự Lực Văn Đoàn (viết tắt là TLVĐ), một tổ chức văn học nổi tiếng của văn học Việt Nam thế kỷ XX tính từ điểm mốc thời gian 1933 (ra đời), 1935 (phát giải thưởng đầu tiên), tháng 6/1936 (báo Phong Hóa bị đình bản), 1937 (phát giải thưởng lần thứ hai), 1939 (phát giải thưởng lần thứ ba), 1942 (Tạp chí Ngày nay bị đóng cửa). Trong khoảng thời gian trên, với những đóng góp không thể phủ nhận được của tổ chức văn học tư nhân này, TLVĐ có ảnh hưởng mạnh mẽ ở miền Bắc và miền Trung. Còn miền Nam trước 1954 vốn là một vùng văn học gắn bó rất sâu đậm với tính chất bản địa, tại chỗ của nó thì ảnh hưởng ấy có phần mờ nhạt ngoài vài dấu tích cho thấy khả năng thực sự của tổ chức văn học này trong việc xác định các tài năng (đã trao giải thưởng thơ năm 1939 cho tập thơ Phấn hương rừng của nhà thơ nữ Nam bộ Mộng Tuyết).

     TLVĐ trước những ngã rẽ lịch sử và văn hóa: Một loạt các biến cố lịch sử như cơn giông đã cuốn đi những giấc mơ đẹp của một khát vọng "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam" (tôn chỉ của TLVĐ). Nhưng ước mơ này đã bị dang dở và thực sự đã mãi là một ước mơ dang dở khi các thành viên trụ cột đã lần lượt mất đi, và cũng do lịch sử đã đem đến những tôn chỉ xã hội mới. Sau 1954, do những éo le lịch sử, chính ngay  mảnh đất sinh thành dường như đã chẳng mấy đánh giá cao tổ chức văn học này.

 Nhưng nếu đất Hà thành văn vật trước 1945 là nơi  chứng kiến sự ra đời, tồn tại, phát triển và cống hiến của TLVĐ, thì trải qua nhiều biến cố lịch sử, ngay từ những năm 1951, 1952, miền Nam lại là nơi lưu giữ rất nhiều  di sản "vật thể" lẫn "phi vật thể" của tổ chức văn học này theo cùng với thành viên sáng lập Nhất Linh (cũng là thành viên trụ cột cuối cùng còn  lại sau các biến cố), người đã chọn Đà Lạt làm nơi ẩn cư để hoàn tất trường giang tiểu thuyết Xóm cầu mới, và cũng đã về Sài Gòn thực hiện nốt những đoạn vĩ thanh cuối cùng của "một thời Tự Lực Văn Đoàn" với nhà xuất bản Phượng Giang (tái bản các tiểu thuyết TLVĐ). Và có vẻ như dựa trên những hào quang cũ, Nhất Linh, một nhà văn giàu tài năng, rất tự tin và cũng rất nhiều mộng tưởng, đã lại làm tạp chí Văn Hóa ngày nay tại Sài Gòn với ý định vừa nối tiếp vừa cải cách, cập nhật vừa nâng cao  các thành tựu của TLVĐ trước kia (nhưng chỉ ra được 11 số rồi đình bản với đầy đủ các lý do nội tại của nó cũng như lý do khách quan bên ngoài). Trong thời gian tồn tại của tạp chí Văn hóa ngày nay, Nhất Linh đã có nhiều cố gắng để xây dựng một thế hệ kế thừa truyền thống của TLVĐ (như trường hợp Duy Lam nhưng không mấy hiệu quả).

Đặc biệt trên tạp chí này có đăng một phần của tác phẩm Xóm Cầu Mới, một trong hai tiểu thuyết tiểu thuyết cuối đời của Nhất Linh. Năm 1960 tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy được xuất bản nhưng không mấy tiếng vang. Cùng năm đó, đáng chú ý hơn cả là tác phẩm dịch thuật Đỉnh gió hú của Nhất Linh (nguyên bản là tiểu thuyết Wuthering Heights  của nhà văn Anh Emily Brontee) đăng từng kỳ trên báo. Đây là những sự việc thể hiện những nỗ lực cuối cùng rất đáng trân trọng của người sáng lập TLVĐ trước khi xảy ra sự kiện cái chết của Nhất Linh năm 1963.

     Miền Nam trong những thập niên 60, 70 đầy dẫy những biến cố lịch sử chung quanh cuộc chiến tranh vừa là chống xâm lược vừa là chiến tranh ý thức hệ. Và nên kéo theo đó là sự du nhập ồ ạt nhưng nửa vời của các trào lưu tư tưởng, văn học của phương tây tư bản đã gây ra những khủng hoảng văn hóa, văn nghệ và văn học trên mảnh đất miền Nam. Các xu hướng của văn học miền Nam lúc bấy giờ đã thể hiện trọn vẹn các khía cạnh thực tế cũng như các vấn nạn nóng bỏng của thời đại . Các dòng văn học hiện sinh, văn học hiện thực, văn học tâm linh, văn học du đãng, văn học về nguồn, văn học đấu tranh... đã cùng nhau tồn tại trong các mối quan hệ dù tương quan nhau hay đối kháng nhau, nhưng tất cả đã cùng nhau làm nên một cục diện mới của một nền văn học tồn tại với những đường ranh giữa phong phú và hỗn tạp, nô dịch và đấu tranh, nhân bản và suy đồi, ngoại lai và dân tộc...

Trong bầu không khí đó, ngay từ đầu thập niên 60, các tôn chỉ của TLVĐ đã trở thành lạc điệu trong một bầu khí xã hội thấm đẫm các vấn nạn của thời thực dân mới không còn nhu cầu chống phong kiến, không cần kêu gọi "vui vẻ yêu đời", cũng chẳng tin vào "chủ nghĩa bình dân" hay "tin vào sự tiến bộ", tin vào hào quang "thái tây" đã lỗi thời.

Sau đó, các hậu duệ của dòng họ Nguyễn Tường dường như đã rẽ sang những bước ngoặt khác dù họ có viết văn hay không. Nhưng điều đáng chú ý là họ đều kế thừa được tố chất tài hoa của gia tộc. Chẳng hạn như Nguyễn Tường Lan Phương (gọi Nhất Linh bằng chú) dạy học tại trường nữ trung học Gia Long Sài Gòn, tuy dạy môn sinh học nhưng vẫn phảng phất nét lãng mạn tài hoa trong phong cách. Thế Uyên (gọi Nhất Linh bằng cậu) thì đã hoàn toàn là một thế hệ khác, là nhà văn viết nhiều về chiến tranh, đã có vài tác phẩm xuất bản trong những năm đầu của thập niên 70.

Trong truyện ngắn Đôi ngã (tập truyện Trầm mặc cây rừng) của Võ Hồng, một cây bút nổi tiếng của văn học miền Nam có một đoạn tác giả cảm hoài về "sự lạc loài của  Hồn bướm mơ tiên trong thời đại  của Chú Tư Cầu" (của Lê Xuyên, một nhà văn Nam bộ gốc Cần Thơ, cây bút feuilleton độc đáo, quen thuộc của báo chí Sài Gòn lúc ấy). Nói rộng ra, theo Võ Hồng, thì Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Bướm trắng, Đôi bạn... là những tác phẩm của thời kỳ "tình yêu lãng mạn ngày ấy giờ đã không còn chỗ đứng trong thời đại trâng tráo ngày nay" (chữ dùng của Võ Hồng), là thời kỳ mà các tác phẩm chiếm lĩnh thị hiếu công chúng không chỉ có Chú Tư Cầu của Lê Xuyên, mà còn có Khung rêu, Mèo đêm của Thụy Vũ, Tôi nhìn tôi trên vách của Túy Hồng, Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng, Loan mắt nhung của Văn Quang, Kinh nước đen của Nguyễn Thụy Long..., nghĩa là "Nghệ thuật đen" của thời kỳ hoang mang và nổi loạn đang không ngừng mở rộng trên văn đàn miền Nam lúc ấy. Cũng trong truyện ngắn trên, Võ Hồng còn nhắc lại việc "năm 1966, một tuần báo văn học có phỏng vấn các độc giả của họ, yêu cầu mỗi người  chọn mười nhà văn mà họ yêu thích. Kết quả là trong năm mươi người chỉ có một người thích TLVĐ".

Sự kiện này hoàn toàn có cơ sở khi lướt qua những ý kiến về TLVĐ đây đó trên sách và báo miền Nam. Chẳng hạn như tác giả  Lữ Hồ trong Việt văn giản dị, tự học quốc văn và luyện thi tú tài  của tác giả Lữ Hồ (do Ấn quán Đại học Vạn Hạnh phát hành năm 1960) có viết: "Hai tiếng lý tưởng mà Vũ Ngọc Phan gán cho tiểu thuyết TLVĐ đã trở thành quá đáng. Dù cho ta muốn hiểu hai tiếng ấy như một danh từ để chỉ cho ý nghĩa của cuộc sống hay  một hình dung chỉ những điều xa thực tế thì cái lý tưởng mà TLVĐ kêu gọi thanh niên theo đuổi vẫn không đủ để lôi kéo toàn thể lớp trẻ Việt Nam đang chờ ngày đứng lên hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc và ta cũng sẽ không ngạc nhiên khi thấy lời kêu gọi của TLVĐ đã bị rã rời, tan tác trước cách mệnh tháng 8 năm 1945". Hoặc ta dễ thấy nhận xét sau đây về xu hướng  cách tân "Âu hóa" của TLVĐ của tác giả Võ Thu Tịnh trong  Việt văn đệ nhị ABCD  đã viết  "Trong cái cũ vẫn còn lắm điều hay và điều tốt đẹp để duy trì".

Nói chung, sự nghiệp tư tưởng của TLVVĐ với hai trạng thái được quan tâm nhất trong xu hướng phê bình văn học và giáo khoa tại miền Nam những thập niên 60, 70 chính là thái quá (trong việc đánh giá, ứng xử với truyền thống) và bất cập (trong sự hiểu biết thấu đáo về cái mới mà mình hô hào) đã thể hiện rất rõ dáng vẻ của "cái bồng bột của gia đoạn đả phá" (Võ Thu Tịnh). Và như thế, với những đòi hỏi mới của xã hội, lịch sử sau 1945, thì rõ ràng là thời kỳ của những nhân sinh quan, những quan niệm  nghệ thuật kiểu TLVĐ đã thực sự trôi qua, vì nó cũng nằm trong dòng chảy không ngừng nghỉ của văn học dân tộc, nên "trôi qua" là tất yếu khi nó không còn dễ dàng tìm sự đồng cảm của công chúng đương thời. Có chăng, tiểu thuyết TLVĐ chỉ còn như những kỷ niệm đẹp mà nhà văn Võ Hồng đã ngậm ngùi hoài cảm.

Cái nhìn "biệt nhãn" về giá trị của TLVĐ trong giới nghiên cứu phê bình miền Nam

     Tuy nhiên, việc TLVĐ "tắt" ngay sau thời gian "huy hoàng" không quá một thập niên (khác với những trường hợp tác phẩm đã trải qua nhiều sàng lọc của lịch sử và thời gian) không hề mang ý nghĩa là phủ nhận giá trị của những gì mà TLVĐ đã thực sự đóng góp trong những bước ngoặt lớn của văn học Việt Nam. Vì thế, trong cách nghĩ của người miền Nam, đó còn là một quá khứ đẹp đáng trân trọng.

     Trong tạp chí Văn tại Sài Gòn số 14 ngày 7- 7- 1964 (một năm sau khi nhà văn qua đời), trong một bài viết về TLVĐ và Nhất Linh của tác giả Nguyễn Văn Xung có đoạn: "Những tranh khôi hài ý vị và thông minh, những bài châm biếm sâu sắc, những thiên phóng sự linh hoạt không những phản ánh những sự lố lăng của nếp sống vừa đổi mới mà còn khơi dậy cả cái nguồn yêu sống, lòng tin tưởng vốn là những truyền thống cố hữu của của dân tộc đã từng chứng tỏ trong ca dao từ xưa, trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến... trong các thế kỷ trước...", "Óc trào phúng được được phát huy mạnh mẽ để đánh tan cái bi quan gây ra bởi những Tuyết Hồng lệ sử của Từ Trẫm Á, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Giọt lệ thu của Tương Phố, Linh Phượng ký của Đông Hồ".

Như vậy tác giả Nguyễn Văn Xung đã quan tâm đến một khía cạnh ít được những nhà nghiên cứu quan tâm khi đánh giá TLVĐ. Đó là khả năng bằng cách thức riêng của mình, văn chương TLVĐ không hề "đoạn tuyệt" với bản chất tâm hồn Việt, mà hơn thế nữa, còn có thể nối kết và nối dài các truyền thống lạc quan, hy vọng "vốn là những truyền thống cố hữu của của dân tộc'' từng hiện diện rất sớm trong văn chương truyền khẩu cho tới văn chương bình dân. Ý kiến này cho thấy tác giả  Nguyễn văn Xung có chính kiến riêng của mình chứ không dễ dàng đi theo các xu thế cho rằng ấn tượng lớn nhất về TLVĐ chính là "quá khích và cục bộ" (vì chỉ cho một giai tầng trí thức tiểu tư sản thôi) trong các chủ trương cách tân, vận động hô hào của họ.

Ngoài ra, điều rất thống nhất nơi các nhà phê bình, người viết giáo khoa chính là đánh giá về cống hiến về phương diện nghệ thuật của các tác phẩm TLVĐ về các thể tài tiểu thuyết, thơ, văn chương trào phúng....là không thể phủ nhận được. "Làm cho văn quốc ngữ tươi trẻ, mới' (Võ Thu Tịnh); "Các hình tượng bất hủ trong làng hài hước Việt Nam" (và đã đi vào ngôn ngữ Việt Nam) như Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh, Nghị gật... đều từ TLVĐ mà ra' (Võ Thu Tịnh), "kể cả Toàn quyền, thống đốc cũng bị chế diễu"; "Văn phẩm của họ đã đã đánh dấu sự trưởng thành nhanh chóng của nền văn học mới vào nửa đầu thế kỷ này" (Lữ Hồ).

TLVĐ trong chương trình quốc văn tại các trường trung học miền Nam 1954- 1975

Với giá trị của một quá trình hoạt động và cống hiến, tuy là một sự kiện "đã qua" nhưng TLVĐ cũng đã có một chỗ đứng nhất định trong giáo dục miền Nam sau 1954. Trong các thư viện nhà trường, thư viện quốc gia và cả thư viện tư nhân tại miền Nam, các tác phẩm có in "logo" nhà xuất bản Phượng Giang vẫn được xếp vào các vị trí trang trọng. Trong chương trình giảng dạy văn chương tại các trường trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp ở miền Nam, văn chương TLVĐ vẫn được dành cho những chỗ đứng bên cạnh nhiều thành tựu văn chương khác đã được xem là di sản của văn học Việt Nam. Ngoài việc là đề tài cho các cuộc "trần thuyết" (thuyết trình) trong các cấp lớp, các vấn đề về văn chương, tư tưởng, quan niệm nghệ thuật... của  TLVĐ còn hiện diện trong các kỳ thi quan trọng như thi tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp, thi tú tài...

Cần chú ý là việc biên soạn các sách giáo khoa ở miền Nam lúc bấy giờ cũng dựa trên một khung chương trình căn bản, nhưng việc viết sách, xuất bản, sử dụng trong giảng dạy và học tập là hoàn toàn tự do (cho tất cả các môn học trong đó có môn Quốc văn). Sự "bỏ ngõ" đó cũng là một hình thức của tự do cạnh  tranh, và tự do cạnh tranh trước hết sẽ là cạnh tranh chất lượng, và điều này vô cùng có lợi cho người tiêu thụ. Vì thế, sách giáo khoa văn học rất phong phú với lực lượng khá nhiều người viết sách, với khả năng rộng rãi trong việc tuyển chọn tác phẩm và trích đoạn, tính chất "mở" trong quan niệm đánh giá tác phẩm, tác giả. Mặt khác, tiêu chí chấm điểm học sinh cũng khá "mở" trong xu thế tiếp nhận quan niệm của người đi học. Và do đó, ngoài các đánh giá căn bản xuất phát từ những sự việc hiển nhiên của tác phẩm, thì các cách hiểu, các quan niệm khác nhau trong cách đánh giá tác giả, tác phẩm là chuyện bình thường. Nhiều nhà phê bình, nhiều tác giả sách giáo khoa thời ấy đã có những cách hiểu, cách tiếp cận, cách lựa chọn các trích đoạn khác nhau để giảng Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân Hương... của văn học trung đại, hoặc cũng có những đánh giá riêng đối với các tác giả hiện đại được giới thiệu trong chương trình như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh ở phía Bắc, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn An Ninh... ở phía Nam.

Và tương tự, cũng có nhiều quan điểm khác nhau trong việc tiếp nhận, đánh giá các tác phẩm của TLVĐ. Các tác phẩm của TLVĐ được chọn lựa nhiều nhất để giảng dạy, ra đề thuyết trình, thi lục cá nguyệt, thi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp (cấp 2), trung học đệ nhị cấp (cấp ba)... là Nửa chừng xuân, Lạnh lùng của Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Con đường sáng, Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo.

Các vấn đề thuyết trình, bình luận, các đề thi được ra chung quanh những tác phẩm này, ngoài những đề vừa sức của trung học đệ nhất cấp như "Phân tích quan niệm về tình yêu lý tưởng trong Nửa chừng xuân", "Phân tích xung đột mới - cũ trong Đoạn tuyệt", "Nhận xét quan niệm ứng xử của cụ Tú Lãm trong Nửa chừng xuân", hay các đoạn phân tích tâm lý nhân vật..., thì các đề kiểm tra, đề thi của trung học đệ nhị cấp về TLVĐ có đòi hỏi cao hơn rất nhiều. Và chính ở đây thể hiện rất rõ những điểm gặp gỡ, tương đồng cũng như các điểm dị biệt giữa cách tiếp nhận, các quan niệm của những người viết sách giáo khoa cũng như thử thách khả năng tiếp nhận, phán đoán văn chương, tư tưởng tác phẩm và khả năng tự  thể hiện của người học. Thử tham khảo một số đề kiểm tra, đề thi dưới đây: Trong quyển Việt văn giản dị, tự học quốc văn và luyện thi tú tài  của tác giả Lữ Hồ (do Ấn quán Đại học Vạn Hạnh phát hành năm 1960) có các đề thi sau:  

-   Theo ý bạn, trong phạm vi văn học, một văn đoàn có bắt buộc phải có một chương trình hoạt động về chính trị xã hội không?".

-   Bàn về tiểu thuyết lý tưởng của Tự Lực Văn Đoàn.

-   Bình luận tư tưởng sau đây của Hoàng Đạo: "Cần sự nghiệp không cần công danh".

-   Vấn đề giải phóng "phụ nữ mới" thoát khỏi chế độ đại gia đình được Tự Lực Văn Đoàn trình bày như thế nào qua ba tác phẩm Lạnh lùng, Nửa chừng xuân và Đoạn tuyệt.

-   Phải chăng nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt là một phụ nữ mới?

Trong quyển Việt văn đệ nhị ABCD của tác giả Võ Thu Tịnh (Nhà xuất bản Hải Sơn Sài Gòn, không ghi năm xuất bản nhưng chắc chắn là trước 1974, vì còn dạng thức thi tự luận) có một số câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài và những đề thi như:

-   Quan niệm của Loan về chữ hiếu như thế nào? So sánh quan niệm ấy với quan niệm về chữ hiếu của Nho giáo dưới đây: "Thầy Tử Cống thưa rằng con theo mệnh cha là hiếu, tôi theo mệnh vua là trung, còn ngờ gì nữa?" - Khổng Tử nói rằng: "Ngươi không biết gì. Đời xưa đấng minh quân làm vua nước thiên thặng, có tránh thần năm người, thì xã tắc không nguy. Làm chủ một nhà, có tránh thần ba người thì tộc vị không nguy. Cha có tránh tử thì không hãm vào điều vô lễ. Kẻ sĩ có tránh hữu thì không làm điều bất nghĩa. Chỉ biết xét cái đáng theo mà theo, mới gọi là trung là hiếu vậy" (Khổng Tử gia ngữ, Tam thử, IX).

-   Nhận xét về tư tưởng "Trốn không được thì chỉ có cách là can đảm nhận lấy cái đời hiện tại của mình". Đúng hay sai? Tiêu cực hay tích cực? Loan có nói rõ vì sao mà "trốn không được" và vì sao mà "chiếc thuyền kia sẽ là một nhà tù trôi nổi" không?

-  Có phải trong đại gia đình không có dây thân ái tự nhiên ràng buộc, mà đành lấy dây liên lạc giả dối ràng buộc nhau không?

-   Giảng rõ và nhận xét câu "Biểu hiện cho đất nước ấy không phải là các bậc vua chúa danh nhân, mà chính là đám dân đen không tên không tuổi".

-   Câu nào (trong trích đoạn) chứng tỏ rằng công việc của Dũng làm trong bấy lâu nay là nhằm cải tiến đời sống của dân quê. Vì chưa thỏa nguyện về hiện tình của dân quê mà Dũng chỉ thấy "có lẫn chút rạo rực, nao nức", như thế dã có phải là một bất mãn cao độ dẫn đến khởi điểm của cách mạng chưa? (Vì sao Dũng không mong dân quê THOÁT HẲN (chữ in trong văn bản) cảnh hà hiếp, bức bách? Do đó thử tìm hiểu lập trường của Nhất Linh ở Đoạn tuyệt (1935). Về sau lập trường ấy có thay đổi phần nào không?

-   Nhận xét câu "Thị Loan chỉ có cái tội là cắp sách đi học. Có khi nào Loan hối tiếc đã được đi học không? Do đó có thể thấy được "con người có học" giữ vai trò thế nào trong lập luận của Loan, của Nhất Linh ở Đoạn tuyệt? Có học đã đủ chưa? (Đối chiếu với điều tâm niệm thứ 5 của Hoàng Đạo)

-    Ích lợi của học thức như thế nào (trong Mười điều tâm niệm)? Nhưng chỉ  có học thức đã đủ chưa? Có trường hợp nào người ta dùng học thức để đàn áp bóc lột kẻ khác để mưu cầu hư danh quyền lợi cho cá nhân không? Dẫn ví dụ. Có trường hợp nào nhờ học thức nên hiểu điều nên làm, điều nên tránh mà vẫn không dám nhúng tay vào việc không? Vì sao?

-   Con đường "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" của Nho giáo có đáng bị Hoàng Đạo đả kích không? Điều đáng chỉ trích của Nho giáo ở xã hội ta thời Hoàng Đạo thật ra là thế nào?

-   Tứ thư, Ngũ kinh là gì? Trường hợp "mất giáo hóa nhưng chưa hấp thụ giáo hóa mới cho đến nơi đến chốn" đã được Nhất Linh thể hiện nhân vật nào, tiểu thuyết gì?

-  Theo Hoàng Đạo, "công danh" khác với sự nghiệp thế nào? (Hoàng Đạo có hiểu đúng nghĩa "công danh" không? Công vốn nghĩa là gì? Danh vốn nghĩa là gì? Có phải là Hoàng Đạo đã dùng chữ "công danh" theo ý nghĩa tầm thường là địa vị, chức tước, có nhiều lợi danh không? Đối chiếu với câu thơ của Nguyễn Công Trứ: "Không công danh thà nát với cỏ cây" hay "Cái công danh là cái nợ nần".

-   Vì sao Hoàng Đạo nói sức mạnh của các nước Âu Mỹ là ở điểm có phương pháp sắp đặt? Có phương pháp tổ chức, xếp đặt có nghĩa là thế nào? Ví dụ. Nhưng điều lợi của óc tổ chức, xếp đặt. Áp dụng vào một quốc gia, một cơ quan, một gia đình, một công cuộc học tập như  thế nào?

Giáo trình Việt văn đệ nhị của Thanh Trúc, Đoàn Văn Thuận (tài liệu in Roneo, không ghi năm xuất bản, nhưng chắc chắn là trước 1974 do cách ra đề kiểu tự luận) có những câu hỏi hướng dẫn học bài và kiểm tra như;

-   Thế nào là tiểu thuyết luận đề? Thế nào là tiểu thuyết lý tưởng? Nửa chừng xuân của Khái Hưng thuộc loại tiểu thuyết gì?

-   Vấn đề cũ mới và phương thức giải quyết của Khái Hưng qua Nửa chừng xuân?

-   Ưu và khuyết điểm của quan niệm tự do luyến ái trong Nửa chừng xuân?

Giáo trình Việt văn 11 ABCD của Tạ Ký có các câu hỏi ôn tập và kiểm tra như:

-   Giải thích bốn chữ Tự lực văn đoàn.

-   Phân tích chủ trương của TLVĐ về xã hội và về văn học.

-   Loan có thể là một nhân vật tiêu biểu cho nữ giới Việt Nam thời ấy không?

Cách ra hướng dẫn học bài và câu hỏi thi như trên hiện diện trong một số giáo khoa thuộc hàng sớm nhất, hoặc nổi tiếng như trên đã thể hiện ít nhất là hai phương diện là quan niệm về tác giả, tác phẩm  của người thầy, kiểm tra cách tiếp nhận văn chương và tư tưởng trong văn chương của học trò đối với đối tượng tìm hiểu và học tập của mình là TLVĐ. Tuy các giáo khoa đều có bài giảng trước ít nhiều bày tỏ quan điểm của người viết sách, nhưng các câu hỏi dành cho học sinh bậc đệ nhị cấp thường vừa đòi hỏi kiến thức cơ bản vừa bắt buộc trình bày các kiến giải riêng. Rõ ràng việc tiếp cận TLVĐ không hề là một "cỗ bàn" dọn sẵn khi ta thấy rất nhiều câu hỏi bắt buộc học sinh phải có một khả năng giải quyết bằng kiến giải riêng trước đối tượng khảo sát của mình.

Do thực tế cạnh tranh rất cao, các sách giáo khoa môn quốc văn ở miền Nam muốn được độc giả chấp nhận phải luôn hướng đến sự khai triển chương trình  sao cho vừa đúng quy định nhưng cũng phải sâu sắc và độc đáo. Vì thế, qua nhận xét cách đặt vấn đề, cách triển khai, cách hướng dẫn tìm hiểu về TLVĐ, các giáo khoa trên đã tiến đến xu hướng kêu gọi khả năng phản biện của người tiếp nhận, cho dù đó là học sinh còn ở ghế nhà trường, đã bỏ lối "độc thoại" của người phê bình lẫn người thầy giáo trong việc dạy và học văn chương, nỗ lực thực hành những "đối thoại" giữa học sinh- người tiếp nhận với tác giả và nhà phê bình trên cơ sở chỉ hướng dẫn một ít nhưng đòi hỏi rất cao khả năng vận dụng kiến thức chung và kể cả kinh nghiệm sống, khả năng suy xét... để giải quyết các đề bài. Nhiều tác giả giáo khoa còn khẳng định nguyên tắc viết sách giáo khoa văn chương của mình ngay trên bìa sau của công trình.

Chẳng hạn như  những lời tâm huyết của Lữ Hồ: "Có thể bạn sẽ gặp ở đây những tư tưởng khác thường. Là một dịp để suy nghĩ nhưng không thể bắt ai cũng suy nghĩ giống mình. Thế gian này đầy dẫy cảnh tôi đòi, song chưa có trường hợp nào khốn nạn bằng nô lệ tư tưởng. Hãy đọc kỹ, nghĩ chín rồi tự chọn cho mình một quan niệm, một con đường. hãy vào tác phẩm thật sâu rồi vụt thoát ra thật nhanh... Tác giả chỉ nguyện gieo men cho tư tưởng của bạn khơi nở rồi tự tạo lấy đất đứng dưới ánh nắng mặt trời... Nạn từ chương đã giết chết Đông Á, hàng triệu triệu đầu rụng dưới ngọn bút lông. Văn chương không hiếu sát. Thành khẩn dâng lên tổ tiên tư tưởng trong tiếng nói giàu có của ta" viết cho người học quốc văn và xem họ như những người đã trưởng thành thật sự.

     Hoặc nhẹ nhàng hơn, Võ Thu Tịnh viết  trong lời đề tựa công trình giáo khoa quốc văn gần ngàn trang (do có phần trích văn bản tác phẩm rất nhiều dùng vào các đề kiểm tra cần khảo sát cụ thể tác phẩm) của mình "Sách này còn nhằm tạo điều kiện cho học sinh nhận xét, phán đoán, suy luận xác thực, cùng đem lại thói quen tìm tòi, kê cứu, ham đọc và thích học hỏi hơn là gom góp một số bài sẵn để học thuộc lòng mà chép vào trong lúc làm bài".

    Những lời xác định trên là nhắc nhở chung cho cách tiếp cận toàn bộ chương trình văn học, từ các tác giả, tác phẩm đã được thời gian và lịch sử sàng lọc (các tác phẩm đầu thế kỷ XX trở về trước) chứ không chỉ nhắm vào các tác giả, tác phẩm thuộc nền văn học quốc ngữ hiện đại mà thời gian cho những thử thách để khẳng định chưa phải là nhiều như trường hợp của TLVĐ.

     Như vậy, tại miền Nam, TLVĐ một mặt đã được xem là một quá khứ văn học hàm chứa nhiều tranh cãi, nhưng mặt khác người ta cũng thực sự coi đó là một quá trình phấn đấu có nhiều thành tựu, có nhiều tác phẩm xứng đáng đưa vào chương trình  quốc văn cho học sinh trung học ở miền Nam học tập trong xu thế đánh giá, chiêm nghiệm, suy gẫm, thậm chí có thể phản biện trong các thập niên 60, 70. Điều này một mặt đã thể hiện một cách nhìn nhận công bằng và đúng mức về một mảng văn học thực sự đã có nhiều thành tựu ở nhiều tác phẩm đạt tới một "nghệ thuật ngôn ngữ toàn bích" (đánh giá của Lữ Hồ), nghĩa là đã đạt đến mức độ "mẫu mực" về ngôn ngữ văn chương hiện đại. Mẫu mực ấy rất xứng đáng được ghi nhận và học tập bởi nó cũng góp phần tôn vinh khả năng của tiếng Việt hoàn toàn đủ sức đảm đương trọng trách làm chất liệu của nền văn học mới. Mặt khác, người học quốc văn cũng tránh được cách tiếp cận thụ động một chiều để hạn chế sự tái diễn của các bi kịch "nạn từ chương đã giết chết Đông Á" như Lữ Hồ đã nêu trên. 

Còn sự hoàn hảo về quan niệm, tư tưởng..., tuy các sách vở tại miền Nam đặt ra là thế nhưng điều đó chỉ để cho người học rèn luyện kỹ năng phân tích và suy nghiệm chứ không phải để đả phá hay chỉ trích TLVĐ bởi lẽ các đánh giá tư tưởng là tương đối. Tương đối vì tư tưởng và các chuẩn mực tư tưởng luôn đổi thay. "Vạn thế sư biểu" Khổng Tử và 9 đứa con tinh thần sinh ra từ học thuyết cũng như sự nghiệp của ngài là Tứ thưNgũ Kinh còn bị kẻ hậu sinh "nặng nhẹ" thay, huống nữa là khát vọng "lập ngôn", "lập công" rất chính đáng mà cũng rất kỳ vĩ, rất lãng mạn chỉ trong không tới một thập niên với nhiều điều bất cập và thái quá không thể tránh khỏi của TLVĐ. Điều đáng khâm phục chính là TLVĐ hô hào cổ vũ chỉ bằng chính tâm huyết và công sức của riêng mình (như cái tên Tự Lực), đã có những nỗ lực và thành tựu đáng trân trọng trong tình cảnh hoàn toàn cô đơn giữa các áp lực kinh tế (họ thực sự sống bằng nghề viết văn) của thời nô lệ, giữa áp lực văn hóa, áp lực chính trị của thực dân  trong một thế kỷ mà ấn tượng lớn nhất là tốc độ: tốc độ của các biến cố, các khủng hoảng, các  cơn lốc lịch sử, và kể cả những trả giá "tốc độ" cho số phận của những thành viên tài hoa nhất.

LNT

______________

Tài liệu tham khảo

1.   Lữ Hồ, Việt văn giản dị, tự học quốc văn và luyện thi tú tài, Ấn quán Đại học Vạn Hạnh phát hành năm 1960)

2.   Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Văn học hiện đại, 1965.

3.   Võ Thu Tịnh, Việt văn đệ nhị ABCD  Nhà xuất bản Hải Sơn Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.

4.   Việt văn đệ nhị của Thanh Trúc, Đoàn Văn Thuận, tài liệu in roneo, 1970.

5.   Lược khảo văn học, tập 1, Nguyễn Văn Trung, Trung tâm học liệu SG, 1968.

6.   Việt văn 11 ABCD, Tạ Ký, tài liệu Roneo, ghi năm 1971-1972.

7.   Nguyễn Huệ Chi, Thử định vị Tự Lực Văn Đoàn, http://vanlangseattle.org/public/documents/tulucvandoan.html

8.   Tuệ Minh, Tự lực văn đoàn, một dấu ấn Việt Nam, http://yume.vn/news/cate/subcate/tu-luc-van-doan-mot-dau-an-viet-nam.35A6F40E.html

 


Phamngochien.com - 09:28 - 30/04/2014 - Bài của văn nghệ sĩ          

Gửi bình luận