Thơ Đông Tùng - Lời tâm kinh đồng vọng (Nam Phong)


Tiếng chuông chùa ngân vang giữa khuya thanh vắng, ngoài bến tiếng đò chở hàng lên chợ bắt đầu khua nhịp... Cơn mưa đêm làm vơi đi cái nóng bức của mùa, sáng nay tiếng ve dường như thanh trong và ngọt dịu hơn mấy ngày trước. Tôi chợt nhớ đến bài thơ Haiku của nhà thơ Đông Tùng:

Cơn mưa đi qua
ngoài hiên ve ca
lời kinh Di - đà.

Cơn mưa và tiếng ve là quý ngữ báo hiệu mùa hạ nồng nàn trở về. Mùa hạ là mùa an cư cấm túc của hàng tăng lữ Phật giáo. Ở đây, ta chẳng rõ cơn mưa hay lời kinh Di - đà làm mát dịu cái oi nồng của mùa hạ khiến cho đàn ve ca vang lời của bình an và hạnh phúc. Mà dường như đâu chỉ có loài ve mới cảm nhận được niềm an lạc ấy, ai mà chẳng hân hoan khi tiếp nhận nguồn năng lượng nhiệm mầu từ giáo pháp nhà Phật? Lời kinh Di - đà xua tan cái nóng bức, gội sạch niệm trần tục nơi lòng, mang đến cho mọi người sự dịu mát và thanh thản như cơn mưa:

Cơn mưa
gội sạch lòng ta
lời kinh Di - đà.

Kinh Di - đà nói, tất cả cây cối và chim muông ở thế giới Cực Lạc đều có thể nói pháp, sở dĩ được như vậy là do bản nguyện và tuệ giác của Phật A - di - đà tạo nên. Điều này sẽ trở thành hiện thực đối với cõi nước Sa - bà nếu như mọi người chúng ta đều an trú lòng mình trong cảnh giới thanh tịnh bởi vì "Tâm tịnh tức Phật độ tịnh" (Kinh Duy - ma - cật). Thiết nghĩ, lời thơ của nhà sư Đông Tùng không chỉ dừng lại ở chỗ đàn ve vui say, cất lời hạnh phúc khi tiếp nhận cơn mưa hạ mà có lẽ bản thân chúng cũng đang diễn thuyết pháp âm như kinh Di - đà đã nói.
Khi bước sâu vào cõi thơ của Đông Tùng, ta sẽ nhận thấy một điều rất lạ, khó tìm thấy ở bất kỳ nhà thơ nào, không phải chỉ có loài ve mới nói pháp mà ta còn thấy những loài vật khác đều có thể nói pháp. Chẳng hạn:
Ếch nói pháp và cóc nhập thiền định:

Nước dâng tràn
ếch ca vang
Phật hiệu.

Canh ba
nơi Phật điện
cóc nhập thiền - na.

Trên bồ - đoàn
sâu vào thiền định
chú cóc con.

Chim gõ kiến và chìa vôi tụng kinh, luật tạng:

Bên vườn cherry
chim chìa vôi nhỏ
tụng tạng tỳ - ni.

Bên chùa
con chim gõ mõ
tụng thời kinh trưa.

Lời kinh chiều
vang trong gió
tiếng chim gõ mõ.

Cánh bướm, cánh chuồn nói lẽ sắc không:

Đậu cánh sen hồng
một con chuồn nhỏ
nghiệm đời sắc không.

Con bướm vô tình
đậu nhành bất tử
ngộ đời vô sinh.

Loài trăn nói pháp bất nhị:

Một góc thiền đường
chú trăn lặng lẽ
diễn lời Pháp vương.

Chắc chắn rằng phải an trú trong cảnh giới tịnh độ của tự tâm mới có thể nghe thấy được tiếng pháp âm cất lên từ loài vật.
Có người thắc mắc âm thanh của những loài vật như ve, chim, ếch... là pháp âm thì có thể tạm chấp nhận, còn đối với những loài bướm, chuồn, trăn... có ai nghe thấy âm thanh của chúng đâu, sao lại bảo là "diễn lời Pháp vương"? Lý giải vấn đề này, xin dẫn câu chuyện từ kinh Duy - ma - cật. Khi được hỏi về cách thức thể nhập pháp môn bất nhị thì tất cả hàng bồ - tát đều dùng lời lẽ để lý giải, nhưng chỉ có cư sĩ bồ - tát Duy - ma - cật lặng thịnh. Lúc đó, đức đại trí Văn Thù cất lời khen ngợi về hành xử của Duy - ma - cật là câu trả lời tối thượng. Đó là câu trả lời vô ngôn, là sự im lặng hùng tráng và sấm sét. Thế thì cánh bướm, cánh chuồn, chú trăn trong các bài thơ trên có thể diễn thuyết Phật pháp không? Trong cái vô ngôn của bướm, chuồn chuồn, trăn có chứa diệu lý của nhà Phật không?
Tiến thêm một bước nữa, ta sẽ thấy không chỉ có loài hữu tình mới nói pháp mà ngay cả loài vô tình cũng nói pháp:

Tiếng phong linh
tiếng lá đổ
tâm kinh.

Gió thì thầm
hương hoa cúc
ồ! pháp âm.

Sân chùa
nắng rọi
lời kinh.

Sóng biển thì thầm
thông ngàn ca tụng
thánh hiệu Quán Âm.

Dưới hiên chùa
lời kinh của Bụt
đọng vào hạt mưa.

Những bài thơ trên đều đề cập về loài vô tình: cỏ cây hoa lá... nói pháp, việc diễn thuyết pháp âm của loài vô tình có thể khái quát qua các trường hợp sau đây:
Dùng âm thanh thuyết pháp: tiếng phong linh, tiếng lá, tiếng gió, tiếng mưa, tiếng sóng biển.
Dùng mùi hương thuyết pháp: hương hoa, hương nắng, hương lá, hương nước, hương gió.
Dùng màu sắc thuyết pháp: sắc nắng, sắc nước, sắc hoa, sắc lá cây.
Loài hữu tình và vô tình đồng nói pháp nơi đây không phải là sự tưởng tượng hay nhân cách hóa bởi lẽ trong kinh điển nhà Phật nói rất rõ, có thế giới dùng âm thanh, mùi hương và ánh sáng để chuyển tải pháp âm như cõi nước Cực Lạc của Phật A - di - đà, có thế giới dùng mùi hương để chuyển tải pháp âm như cõi nước Chúng Hương của Phật Hương Tích, có thế giới dùng âm thanh chuyển tải pháp âm như cõi nước Sa - bà của Thích - ca:
"Thử phương chân giáo thể. Thanh tịnh tại âm văn. Dục đắc tam - ma - đề. Giai tùng âm nhi nhập" (Chân giáo thể của cõi này. Thanh tịnh ở âm thanh. Muốn đạt được chính định. Phải từ âm thanh mà vào) (Kinh Lăng Nghiêm)
Rõ ràng, những bài Haiku nhỏ bé trên nói riêng và cõi thơ của Đông Tùng nói chung đều được xây dựng trên một nền tư tưởng triết học Phật giáo thậm thâm, chứ không phải ngẫu nhiên mà có được. Để có thể trình bày và chia sẻ những điều mắt thầy tai nghe khế hợp với lời dạy, với tư tưởng nhiệm mầu trong kinh điển như trên ắt hẳn Đông Tùng phải thể nhập cảnh giới thanh tịnh và tận hưởng niềm an lạc nơi lòng mình, vì chỉ có người đạt được cảnh giới "tâm cảnh nhất như" mới có thể lắng nghe được pháp âm đồng vọng từ thế giới hữu tình và vô tình.


Phamngochien.com - 07:23 - 25/03/2014 - Bài của văn nghệ sĩ          

Gửi bình luận