Huế trong cơn đại hồng thủy 1999 (Phạm Ngọc Hiền)

 

Nhắc đến các trận lũ lụt lớn ở miền Trung, người ta thường nhớ đến cơn đại hồng thủy ở Huế năm 1999. Đây là trận lũ lụt lớn nhất ở Việt Nam. Tác hại của nó nằm ngoài sự tưởng tượng của con người và tạo một vết hằn không thể phai mờ trong ký ức của người dân Thừa Thiên.

Trong những ngày ấy, tôi ở Huế. Tôi từ Phú Yên ra đây học Cao học khóa VIII (1999 – 2001) của trường Đại học Sư phạm. Trong học kỳ đầu, tôi học các môn chung ở trường Đại học Khoa học. Thời điểm đó, chúng tôi đang học môn của PGS.TS Thái Duy Tuyên từ Hà Nội vào dạy. Mỗi ngày, tôi đi bộ từ nhà trọ ở Đập Đá đến trường Đại học Khoa học. Trưa về nghỉ ngơi, chiều lại đi tiếp. Tổng cộng chặng đường đi bộ mỗi ngày là 8 km. Buổi chiều, sau khi đi học về, tôi thường đi dạo dọc bờ sông Hương, ngắm cảnh xứ Huế mộng mơ. Nhìn dòng sông Hương hiền hòa lặng lờ chảy, tôi nghĩ, xứ này khó có thể xảy ra những chuyện kinh hoàng. Chiều ngày 1 tháng 11 năm 1999, tôi đi dạo sông Hương trong lúc mưa lay bay. Trên trời, mây đen mù mịt như tô đậm thêm bức tranh thâm trầm vốn có của xứ Huế. Sông Hương vẫn chầm chậm chảy như nói với tôi rằng: cuộc sống ở đây vẫn hiền hòa, không có gì thay đổi. Tối đó mưa tầm tã. Chuyện này cũng không có gì lạ. Người Huế phải sống chung với mưa như người miền Tây sống chung với lũ. Nhưng mưa to suốt đêm…

Sáng này 2 tháng 11 (tức là 25 tháng 9 âm lịch), tôi mặc áo mưa đi học. Nhưng thấy đường phố đã ngập hết nên đành quay về. Khoảng 9 giờ sáng, nước tràn vào nhà trọ. Chúng tôi phụ gia đình mệ Nghĩa chuyển các đồ đạc lên tầng trên. Chiều đó, nước vẫn dâng lên. Các căn nhà thấp ở trong xóm bắt đầu nhốn nháo. Họ chuyển đồ đạc sang những nhà cao hơn. Những gia đình trong con hẻm 11A Nguyễn Công Trứ tập trung về nhà mệ Nghĩa. Nhà mệ có ba tầng. Tầng một dành cho nước. Tầng hai và ba dành cho người. Trước kia, tôi cứ nghĩ dân thành phố sống cách biệt, nhà ai nấy biết. Qua cơn hoạn nạn, mới thấy được tầm quan trọng của tình làng nghĩa xóm.

Trong suốt hai ngày 2 và 3, mưa tầm tã. Tôi nhìn ra ngoài cửa kính, chỉ thấy một màu trắng đục, theo đúng nghĩa “mưa như trút nước”. Nhà tôi ở trọ sát bên Đập Đá, nơi giao nhau giữa con sông Hương và sông Cùng chảy qua Vĩ Dạ. Đây là vùng trũng nên nước ngập cao hơn các chỗ khác. Toàn thành phố chìm trong biển nước. Mọi liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. May mắn thay, tôi vẫn nắm được tin tức bên ngoài thông qua chiếc radio dùng pin. Tôi lắng nghe các đài trong và ngoài nước nói về lũ lụt. Nhưng hầu hết các đài chỉ nói chung chung vì phóng viên không thể tác nghiệp trong cơn lũ quá lớn.

Trong khi tôi nghe đài thì nhiều người chơi đánh bài. Họ đánh bài suốt ngày không biết chán. Các ông bà già ngồi kể đủ mọi chuyện. Có cụ kể hồi chiến tranh, ở Thừa Thiên cũng có một trận lũ lớn nhưng không lớn như trận lũ này. Vùng quê của cụ bị lụt nặng, người dân leo hết lên nóc nhà. Máy bay trực thăng bay đến, thả thang xuống cho người dân leo lên. Một cụ khác thở dài: hồi đó chiến tranh nên máy bay trực thăng nhiều. Còn bây giờ hòa bình, tìm đâu ra một chiếc trực thăng. Ngồi ở thành phố nhưng các cụ lo cho bà con ở thôn quê, nơi mình chôn nhau cắt rốn. Họ biết, ở thành phố mà bị lũ lớn như thế này thì ở nông thôn sẽ bị thiệt hại rất nhiều.

Buổi tối, mọi người chen chúc nhau ngủ. Trong căn phòng chật hẹp, không còn một kẽ hở để đi lại. Người ta nằm trong phòng, ngoài lối đi hoặc bất cứ chỗ nào có thể ngả lưng được. Đêm tối thui, không còn phân biệt ai là ai nữa. Người già, người trẻ, đàn ông, đàn bà đều bình đẳng như nhau. Chân này đạp trên chân kia, chẳng biết đó là nam hay nữ. Có anh nằm ngáy to như như sấm nhưng bị át bởi tiếng mưa rơi tầm tã trên mái tôn nên cũng không làm phiền ai. Bên ngoài chỉ toàn là nước,  tất cả các cửa đều đóng kín mít và nhưng vẫn đủ oxy cho hơn 30 con người hít thở.

Lại nói về chuyện ăn uống. Mọi người hứng nước mưa mà uống. Nhưng vấn đề đáng lo nhất là thức ăn. Ngày đầu, chúng tôi ăn cơm với mắm. Chiều ngày thứ hai, chúng tôi ăn gạo rang. Mệ Nghĩa thông báo: ngày mai, gạo hết, mắm hết, bếp gas cũng hết. Mọi người bắt đầu lo chết đói. Một anh hàng xóm đi tìm lương thực bằng cách leo qua các mái nhà dưới cơn mưa trút nước. Anh dỡ ngói vào nhà mình và mang sang một ít gạo, mắm và củi. Nhờ vậy, chúng tôi hy vọng sẽ có thức ăn thêm một ngày nữa. Nhưng còn ngày thứ tư, thứ năm sẽ ăn gì ? Không ai trả lời được câu hỏi đó.

Nhưng bước sang ngày thứ ba (ngày 4 tháng11), mưa ít hơn, nước rút dần. Buổi chiều, mọi người lội nước về nhà xem thử thứ gì còn, thứ gì mất. Buổi tối hôm đó, ai về nhà nấy. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thế là căn phòng nhỏ xíu được trao trả lại cho tôi và Tuấn Anh (Kon Tum). Chúng tôi phụ gia đình chủ nhà khuân vác đồ đạc xuống tầng một. Những chiếc xe máy bị ngâm nước bùn, trông rất thảm hại. Mệ Nghĩa chạy ra phố tìm mua gạo mắm để cứu đói cho gia đình và những người ở trọ. Mệ về nói, gạo ở các tiệm bị ngâm nước hết trơn. Nhưng vẫn ăn tạm được. Chúng tôi lại tiếp tục ăn cơm với mắm.

Ngày 5 tháng 11, về cơ bản, thành phố Huế đã hết lụt (nhưng nhiều huyện vẫn còn). Tôi đi dạo thăm phố phường sau cơn đại hồng thủy. Ở khu Đập Đá, củi rác chất nhiều vô kể. Cây cối từ trên thượng nguồn trôi về đây, tấp hai bên bờ sông. Đường phố đầy bùn và rác. Nghe nói có nhiều xác người dọc bờ sông Hương nhưng người ta đã khiêng đi, tập trung về chỗ bia Quốc Học. Các ông Tây cũng bước ra khỏi các khách sạn, chụp hình lưu niệm về một chuyến đi suýt chết. Người ta kể lại, lũ đến quá nhanh, các nhân viên khách sạn chỉ kịp ném mì tôm cho khách rồi chạy về nhà mình. Suốt mấy ngày lũ lụt, khách du lịch gặm mì tôm và uống nước mưa. Ở các bệnh viện, người ta rất vất vả khi phải di chuyển bệnh nhân và các thiết bị máy móc lên tầng cao. Nhiều y bác sĩ tình nguyện gác việc nhà, túc trực ở bệnh viện suốt mấy ngày để lo chăm sóc bệnh nhân. Một sinh viên thực tập người Bỉ đã phụ giúp các y bác sĩ bệnh viện trung ương Huế thực hiện mấy chục ca đỡ đẻ trong nước lũ.

Cơ sở hạ tầng của Thừa Thiên – Huế bị tàn phá nặng nề. Những thứ gì cần thiết nhất, người ta phải ưu tiên làm trước để ổn định cuộc sống. Hệ thống điện nước ở thành phố Huế đã kịp thời được khôi phục. Đường dây điện thoại cũng nhanh chóng được thông suốt. Cái này rất quan trọng vì những người con của Thừa Thiên – Huế xa quê đang nóng lòng điện về nhà hỏi thăm tình hình gia đình, xóm làng. Cả xóm trọ của tôi chỉ có một cụ già mắc điện thoại. Ông dùng điện thoại để thỉnh thoảng trò chuyện với người con ở Mỹ. Chúng tôi góp tiền tặng ông để mỗi lần có điện thoại từ quê gọi đến thì ông đi gọi dùm. Suốt mấy ngày sau lụt, điện thoại nhà ông đổ chuông liên tục. Ông đi báo tin cho hết người này đến người khác. Má tôi từ Phú Yên cũng điện thoại ra, biết tôi bình an là mừng.

Những hình ảnh tang thương của người dân miền Trung cũng được đưa lên ti vi. Nhà sập, người mất xác, tài sản bị mất trắng. Nhiều làng bị xóa sổ, phải xây lại làng mới, đặt tên mới, cả làng trắng khăn tang. Xem những thảm cảnh ấy, tôi không cầm được nước mắt. Mọi người xung quanh cũng khóc. Khóc cho những người bất hạnh hơn mình. Đợt lũ ấy làm cho dân 10 tỉnh miền Trung bị thiệt hại nặng nề, có 595 người chết (trong đó, Thừa Thiên – Huế chết 352 người). Hàng loạt di tích văn hóa ở Huế bị hư hỏng nặng, lăng Minh Mạng chìm sâu dưới nước 5 mét. Những thiệt hại về vật chất có thể được bù đắp phần nào nhờ vào sự giúp đỡ của đồng bào trong và ngoài nước. Nhưng còn mất mát về nhân mạng thì không có gì bù đắp nổi.

Nỗi khổ của người dân miền Trung không chỉ diễn ra trong mấy ngày lũ lụt mà còn sau đó nữa. Các trường học đều nghỉ mấy ngày để khắc phục hậu quả của lũ lụt. Tôi tranh thủ mấy ngày nghỉ học để về quê. Trong suốt thời gian lũ lụt, giao thông đường sắt, đường bộ bị tê liệt. Các xe khách Bắc – Nam dừng lại ở Huế, nối đuôi nhau dài dằng dặc. Quốc lộ 1A qua Đèo Hải Vân bị tắc nghẽn vì một đoạn đường nhựa bứt khỏi sườn núi, rơi xuống vực thẳm. Người ta phải tạm thời bắc một chiếc cầu sắt dã chiến để từng chiếc xe lớn chậm chạp bò qua. Tôi ngồi trên xe đò, nín thở nhìn xuống vực thẳm xem thử có chiếc xe xấu số nào nằm dưới đó không. Tôi phải đổi xe nhiều lần, trải qua thời gian hành trình gấp đôi mới về tới nhà. Ở Phú Yên cũng bị lũ lụt nhưng không thiệt hại nhiều bằng Thừa Thiên.

Phạm Ngọc Hiền

Hình nhà trọ của tôi ở Huế năm 1999:

Căn phòng trọ có hai người ở

Các học viên cùng ở trọ

Các hình ảnh về lũ lụt ở Huế 1999 (sưu tầm trên mạng):

  


Phamngochien.com - 16:48 - 07/11/2019 - Bài của Phạm Ngọc Hiền          

Gửi bình luận