"CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN" CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN ẢNH
DẪN NHẬP
Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện lần đầu tiên trên trang 1 báo Văn Nghệ số ra ngày 13/8/2005. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã có một sức thu hút rất lớn với nhiều người đọc nói chung và nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học nói riêng.
Truyện bao gồm khoảng mười bảy ngàn chữ với bút pháp giản dị và đầy âm sắc ngôn từ Nam Bộ. Từ tác phẩm, những bi kịch con người từ gia đình đến xã hội, từ tình yêu thương chia sẽ đến những ham muốn bản năng tự nhiên đan xen vào nhau được hiển hiện khiến người đọc thật băn khoăn và xót xa. Một cuốc sống thực tại đã bước vào tác phẩm văn học như chính nó.
Bộ phim cùng tên Cánh đồng bất tận của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình là một sự dũng cảm khi muốn cho tác phẩm vượt qua cái bóng văn học của chính nó. Kể từ khi phim được công chiếu, đã có rất nhiều ý khiến phản hồi khen, chê tùy theo những góc nhìn khác nhau. Nhằm mục đích tìm hiểu về sức truyền tải từ văn học đến điện ảnh của tác phẩm, chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài nghiên cứu này.
I. TÁC GIẢ TÁC PHẨM
1.1. Con người và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê quán tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, hiện sống và làm việc tại tỉnh nhà. Chị học hết lớp 9 phổ thông, cấp ba bổ túc, hiện không làm ở một cơ quan nào nên không bị bó buộc về thời gian. Nguyễn Ngọc Tư sống giản dị với người con ba tuổi và người chồng làm nghề thợ bạc. Chị thích tác giả trong nước như: Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Hồ Anh Thái.
Các tác phẩm chính đã xuất bản:
v Ngọn đèn không tắt (in trong Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2000)
v Ông ngoại (in trong Tập truyện thiếu nhi, NXB Trẻ, 2001)
v Biển người mênh mông (in trong Tập truyện ngắn, NXB Kim Đồng, 2003)
v Giao thừa (in trong Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2003)
v Nước chảy mây trôi (in trong Tập truyện ngắn, NXB Văn Nghệ Tp.HCM, 2004)
v Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005)
v Gió lẽ và chín câu chuyện khác (in trong Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2008)
Những công nhận bằng các giải thưởng của Nguyễn Ngọc Tư:
v Giải 1- cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần 2 với tác phẩm Ngọn đèn không tắt.
v Giải B- Hội nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt.
v Tặng thưởng dành cho các tác giả trẻ của ủy ban toàn quốc.
v Liên hiệp các Hội VHNT với tập truyện Ngọn đèn không tắt
v Một trong "Mười gương mặt tiêu biểu năm 2003" do Trung ương Đoàn trao tặng.
1.2. Vị trí của tác phẩm Cánh đồng bất tận
Cánh đồng bất tận có vị trí quan trọng trong làng văn chương đương đại Việt Nam, đánh dấu một hiện tượng văn học nổi bật năm 2005.
Bắt lòng với Cánh đồng bất tận, đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình đã xây dựng bộ phim này. Bộ phim tràn đầy những nỗi đau những thân phận, những tình cảm mênh mang con người lỡ mang nặng trong suốt quãng đường rong ruổi trên miền sông nước. Có những giọt nước mắt đau khổ, chia lìa nhưng nhiều hơn hết là sự căm giận và nuối tiếc, từng cung bậc cảm xúc được thể hiện khá khéo léo trong toàn bộ phim.
Từ góc độ văn học tới điện ảnh là cả một quãng đường lớn. Nếu văn học không mang tâm hồn đến cho điện ảnh thì điện ảnh sẽ không đủ sức sống, sức lay động lòng người. Ngược lại, nếu điện ảnh không nắm bắt kịp thời cái hồn của tác phẩm văn học thì dường như đã vô tình làm mất giá trị của tác phẩm đó. Và Cánh đồng bất tận với cha, con, vịt và đàn bà đã đều được cả văn học và điện ảnh làm nên bước biến chuyển mới - đó là bước nhìn vào thực tại cuộc sống của người dân. Họ còn đói nghèo kham khổ, cuộc sống không lối thoát cứ bủa vây. Từ công việc để kiếm miếng cơm manh áo, từ những khao khát cuộc sống được yêu thương cả tâm hồn và thể xác đến những sự ức hiếp của thế lực lợi dụng chính quyền... Tất cả đều trở thành tác nhân góp phần từ chối sống của những con người bé nhỏ trên con thuyền vô định, giữa cuộc đời vô tận - giữa Cánh đồng bất tận.
II. CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN - TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN ẢNH
2.1. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề xã hội và con người. Phương thức sáng tác của văn học dựa vào sự hư cấu, cách thể hiện nội dung và đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ). Văn học còn có nhiều khái niệm khác tùy theo cách hiểu của mỗi khách thể tham gia văn học.
Điện ảnh có một khái niệm khá rộng. Chúng tôi chọn khái niệm cơ bản nhất: "Điện ảnh là một khái niệm lớn bao gồm các khung hình chuyển động (phim) kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành một bộ phim (kỹ thuật hình ảnh) hình thức nghệ thuật liên quan đến việc tạo ra các bộ phim và cuối cùng ngành công nghiệp và thương mại liên quan đến các công đoạn làm, công bố quảng bá và phân phối ảnh (công nghiệp ảnh). (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ).
Văn học và điện ảnh có mối quan hệ hết sức khăng khít. Đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật xét cho cùng đều bắt nguồn từ phương diện nghệ thuật hay ngôn ngữ nghệ thuật mà nó sở hữu. Hội họa "nói" bằng đường nét bằng màu sắc, âm nhạc "nói" bằng âm thanh và tiết tấu, sân khấu "nói" bằng diễn xuất và lời thoại của diễn viên... Các phương tiện này khác biệt nhau về tính chất, công năng và hiệu quả. Mỗi loại hình nghệ thuật có một cách sử dụng chất liệu riêng không trùng lặp. Văn học và điện ảnh cũng không nằm ngoài quy luật này.
Văn học nói bằng ngôn ngữ (langue) hay ngôn từ (parole), theo đúng nghĩa chính xác của từ này. Ngôn ngữ văn học được biểu hiện dưới hai dạng: lời nói và chữ viết. Với điện ảnh ngoài những chất liệu ngôn ngữ như với văn học thì chính sự diễn xuất của các diễn viên làm nên linh hồn tác phẩm. Thông qua từng hành động, hội thoại cũng như tâm trạng diễn xuất của diễn viên để đánh giá tác phẩm. Đồng thời để có một tác phẩm điện ảnh hay cần có kịch bản hay điều đó đã kết hợp điện ảnh và văn học với nhau. Như vậy văn chương và điện ảnh gặp nhau ở cùng một đặc điểm: tính tổng hợp. Đặc điểm này cũng xuất phát từ đặc trưng ngôn ngữ của văn học và điện ảnh. Phim muốn hấp dẫn phải có thêm yếu tố cốt truyện. Kịch bản thực chất cũng là văn chương, vậy nên điện ảnh là "văn học hình thành".
Văn học khác điện ảnh, không huy động trực tiếp đến các nghành nghệ thuật khác để tạo nên văn bản văn chương song văn học vẫn mang tính tổng hợp. Đây là tính tổng hợp gián tiếp chứ không trực tiếp như điện ảnh.
2.2. Từ văn bản truyện đến kịch bản phim
Nguyễn Ngọc Tư "đôi lúc ví von mình như quả sầu riêng, người thích thì cho rằng nó thơm người không thích thì cho rằng nó thối". Sự kiện cánh đồng bất tận ra đời, người ta bàn tán, bình phẩm, suy luận, nghi ngờ, khen chê nhưng dù khen hay chê, nghi ngờ hay tán thưởng, độc giả đều nhận ra một Nguyễn Ngọc Tư rất lạ trong dòng văn học Việt Nam đương đại. "Không chát chúa như Đỗ Hoàng Diệu; Không lạnh lùng và sâu cay như Phan Thị Vàng Anh...", Nguyễn Ngọc Tư đã tạo cho mình một thế giới riêng mà ở đó chị tha hồ vẫy vùng và thể hiện bản chất của chính chị: gần gũi, thân thương nhưng nhiều lúc cũng sầu bi với những kỷ niệm, man mác với những hơi "gió Chướng" vô tri.
Sự kết hợp giữa đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình như một cái duyên trời định. Có một nhận định rằng, tính chất địa phương, vùng miền càng thể hiện rõ nét trong tác phẩm nghệ thuật thì sức hút càng lớn. Làm phim từ tác phẩm văn học đậm chất Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Tư đó là một "cú liều" của đạo diễn này khi anh không có vẻ nào là Nam Bộ. Tuy nhiên khi chuyển thể từ văn học thì đời sống, sắc màu, tình tiết trong phim đều được điều chỉnh theo cách mà đạo diễn muốn kể lại câu chuyện cho khán giả. Quyết định làm phim này quả thực là một thách thức cho không chỉ đạo diễn mà cho cả đoàn làm phim. Khi thực hiện bộ phim, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà văn nhà biên kịch Nguyễn Hồ đã cùng đạo diễn Phan Nguyễn Quang Bình đã có một cuộc hành trình thú vị qua các tỉnh Nam Bộ. Lang thang trên những con đường đất trải dài, những cánh đồng rộng thênh thang, dọc theo những dòng kênh xanh, len lỏi vào những rừng tràm... Điều này đã tạo nên những động lực to lớn cho những người làm phim đồng thời cũng đã góp phần trang bị những kiến thức cơ bản nhất để đạo điễn cũng như các diễn viên nhập vai tốt.
Đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình đã chuyển thể gần như trọn vẹn tác phẩm văn học lên bộ phim của anh. Và gần như kịch bản phim không thay đổi gì nhiều so với cấu trúc của truyện ngắn, chỉ thay đổi chút ít ở đoạn kết để có cái nhìn lạc quan hơn cho số phận nhân vật. Những cuộc đời trôi dạt lênh đênh trên những cánh đồng bất tận, Điền và Nương lớn lên trong sự căm giận đàn bà của người cha vì mối thù bị vợ phản bội. Sự cay nghiệt của cuộc đời đã khiến cho cả 3 nhân vật đều có những tính cách bất bình thường trong suy nghĩ, trong hành xử và lối sống. Bộ phim của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình sẽ khiến khán giả phải suy tư, đặt ra nhiều câu hỏi mới có thể thấu hiểu và thông cảm cho nhân vật cũng như có cái nhìn ít tiêu cực hơn cho những hành động của người cha. Bộ phim cũng có nhiều khoảng lặng khiến khán giả luôn phải hoang hoãi trong những cảm xúc xót xa. Bám khá sát với tinh thần của tác phẩm gốc nên không khí của bộ phim khá tù đọng. Những nhân vật với tâm lý bị đè nén cảm xúc không nói nên lời đến mức câm lặng. Phim sử dụng lời tâm sự của cô bé Nương như lời dẫn cho cả câu chuyện phim, lời thoại của Lan Ngọc khiến không ít khán giả phải dùng khăn ngăn lệ.
2.2.1. Về hình thức
a) Không gian và thời gian
Phim Cánh đồng bất tận với nhiều hình ảnh mới mẻ được xây dựng và nhiều chi tiết bị bỏ đi đã gây ra khá nhiều tranh cãi về việc chuyển tải nội dung của tác phẩm. Hình ảnh Cánh đồng bất tận không được thể hiện nhiều như những gì mà độc giả mong muốn. Cánh đồng hiện ra rất ít nó chỉ rõ ràng nhất là cảnh cuối cùng với hình ảnh Nương tâm sự cùng người con trong bụng về cuộc sống trong tương lai.
Thời gian trong tác phẩm cũng như phim song song thực tại và ký ức. Có lẽ phim đã quá lệ thuộc vào trình tự câu chuyện, mọi diễn biến cứ trôi đi, trôi đi như những cánh đồng cứ nối tiếp hiện ra trôi dạt vào cuộc sống của ba cha con. Truyện của Ngọc Tư với cách hành văn vừa gai góc vừa dân dã, có sức thu hút riêng của văn chương. Vì thế, Tư có thể kể lể theo chiều dài của thời gian, không gian, nhưng với điện ảnh mà cứ theo trình tự đều đặn qua lời kể của Nương thì những cánh đồng với nhiều góc quay đẹp cũng khó giữ được cảm xúc lâu dài trong lòng người xem. Có nhiều người đặt ra câu hỏi sao không thử biến hóa khung cảnh thời gian và không gian đi một tí, linh động trong cách xử lí tình cảm thì có lẽ bộ phim sẽ đạt được những giá trị hiện thực cao hơn.
Trong truyện, đoạn kết thúc là hình ảnh hai cha con nằm dưới trời mưa tầm tã, không biết cuộc sống tiếp theo sẽ như thế nào. Phim làm cho câu chuyện đầy nỗi đau trở nên nhân hậu, nồng nàn và sâu lắng hơn ở phần kết thúc với hình ảnh ông Võ đưa đám trẻ con trong xóm đi học, Nương bình yên đi trên những cánh đồng lúa bát ngát và nói chuyện với đứa con trong bụng: "Tía con tôi không còn lang thang nữa. Cùng nhau về sống tại một ngôi làng nhỏ nơi đó hằng ngày tía tôi có thể chở học sinh đi học và tía tôi đã biết cười. Còn đứa trẻ trong bụng tôi sẽ được đặt tên là Thương dù nó là một đứa trẻ không cha nhưng nhất định nó sẽ được đi học"
Cũng phải nói thêm nhân tố tạo nên thành công của bộ phim đó là âm nhạc. Những âm thanh lảnh lót trong cảnh tình cảm hay âm thanh hoang hoãi trong những giờ phút đợi chờ khi làm cho tác phẩm có những điều đáng bình luận, những lỗi nhỏ trong phim có thể được dung thứ.
b) Ngôn ngữ và lời thoại
Văn chương và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật hoàn toàn khác biệt nhau về chất liệu. Chất liệu của văn chương là ngôn từ với tính chất phi vật thể nên văn học chỉ có thể diễn tả thế giới một cách gián tiếp. Chất liệu của điện ảnh là hình ảnh và âm thanh - vật thể hữu hình - nên điện ảnh có thế mạnh trong việc tạo dựng lại thế giới và làm cho hình tượng nghệ thuật trở thành hữu hình. Trong tác phẩm văn học cũng như trong điện ảnh nếu là một người đạo diễn tài ba không thể bê nguyên cái văn bản áp dụng vào thực tế vì vậy giữa bộ phim và kịch bản cũng có những sự thay đổi đáng kể trong lời thoại cũng như diễn xuất của nhân vật.
Trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư sử dụng ngôn ngữ bình dị, dễ hiểu, gần gũi với cuộc sống người dân Nam Bộ, chính vì vậy khi đi vào điện ảnh dường như cũng không thay đổi bao nhiêu. Tùy vào hoàn cảnh cũng có thêm bớt chút ít để phù hợp với những hoạt cảnh.
Cảnh đau đớn của người đàn ông khi vợ mình bỏ đi theo người khác được thể hiện trong truyện và phim cho thấy cả một bi kịch bày ra trước mắt không lối thoát, trong điện ảnh cũng như trong văn học đều khai thác rất tốt ở khía cạnh này. "Người ta đều biết tía cấm khẩu với em và thằng Điền, tía chỉ có tằng hắng và gầm gừ thôi ah! Em phải nghe theo tiếng tằng hắng và gầm gừ ấy để xem tía muốn cái gì" đó là những lới nói chân thực từ đáy lòng của đứa con gái bao năm sống bên người cha có trái tim chai sạn. "Hai mà ăn mặc đẹp để tóc dài là ăn đòn với tía liền" cả Điền cũng phải thốt lên những lời nói sâu cay ấy thì dường như những đứa trẻ này cũng đang dần bị chai sạn bởi sự kìm hãm tai quái của người cha hận thù.
Ngôn ngữ sử dụng trong phim so với tác phẩm cũng có nhiều thay đổi để hợp lý hóa các đoạn giao tiếp giữa những nhân vật với nhau. Trong tác phẩm văn học chủ yếu là độc thoại của nhân vật Nương, thì trong điện ảnh đã có những thay đổi đáng kể giữa những lời hội thoại của nhân vật.
Thế mạnh của tác phẩm điện ảnh là hình ảnh, hành động và lời thoại của nhân vật. Nhưng có lẽ đạo diễn đã quá lệ thuộc vào lời thoại của tác phẩm văn học. Chi tiết rất hay trong truyện qua lời kể của Nương "từ ngày đó, ba em chỉ gầm gừ và tằng hắng. Chúng em phải nương theo tiếng tằng hắng của ba để đoán ý ba thế nào" phải được thể hiện trong phim bằng cách Nương - Điền đoán định ý ba qua tiếng tằng hắng ra sao. Nhưng Út Võ không hề gầm gừ hay tằng hắng mà chỉ thấy quát tháo, dọa dẫm trong phim, cũng không có gì trong phim chứng tỏ Nương và Điền hiểu tiếng "tằng hắng" hay "gầm gừ" của cha. Hay để chứng tỏ cuộc sống trôi nổi vô định của gia đình Út Võ, phải có hàng loạt hành động điện ảnh, chứ không phải đơn giản như câu thoại của Nương khi thấy Điền làm hàng rào quanh cây bưởi mới trồng "trồng làm gì để đi xa rồi lại nhớ"- nỗi nhớ, lẽ ra phải được thể hiện bằng hình ảnh, thì lại đơn giản thông qua một câu thoại mùi mẫn. Hay hình ảnh có tính ẩn dụ về cây sống đời mà "mỗi một lá rơi xuống lại đem lại một mầm sống, như tình cảm của chị đối với chúng em, đi xa nhưng vẫn sống mãi" - lại cũng là một câu thoại văn học hầu như không chút ăn nhập với hình ảnh phim.
Dẫu biết tác phẩm văn học và điện ảnh là hai loại hình hoàn toàn khác nhau và mang đời sống khác nhau. Điều quan trọng là khi chuyển thể từ tác phẩm văn học thành phim thì cần truyền tải được cho người thưởng thức nghệ thuật tinh thần chung của tác phẩm. Tiếc thay, phiên bản phim của Cánh đồng bất tận chưa làm hết những nhiệm vụ đó. Phim đã thay đổi, thêm bớt những chi tiết, những tình tiết của tác phẩm gốc, hay ngôn ngữ không phù hợp lắm với những hoạt cảnh.
Ông Võ thay đổi đến mức cay nghiệt sau sự phản bội của người vợ. Từ đó, ông quay lại trả thù đàn bà, những người không may bước vào cuộc đời ông, được ông tỏ ra yêu thương rồi lại bị ông ruồng bỏ. Khi một người đàn bà nào đó quyết bỏ tất cả đi theo ông, ông vẫn cho họ lên thuyền, đi được một quãng ông: "ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười (...). Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi"... "Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ. Con đường quay về bị bịt kín". Đó là một trong những chi tiết rất đắt giá trong tác phẩm, thế nhưng, trong phim hình ảnh cô Ba đứng trên bờ và nhìn theo chiếc thuyền đang từ từ trôi xa làm người xem bị "chưng hửng". Bởi vì một cảnh đáng ra rất đau lòng, rất xót xa lại bị trở nên gượng ép và thiếu thuyết phục.
Cảnh bà mẹ của Nương và Điền vui vẻ thử tấm vải và "Má ngó chúng tôi, hỏi: "Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?" Tôi nói, "Má lạ quá hà, nhìn không ra". Má mừng quýnh, "Thiệt hả? Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng" (Truyện ngắn Cánh đồng bất tận). Thì ngược lại, bộ phim đặt câu thoại đó vào miệng một đứa trẻ chưa đến mười tuổi! Đó là sự gượng gạo làm đoạn hội thoại có vẻ không sát thực có chút gì đó không cân xứng và phù hợp với nhân vật cũng như bối cảnh. Một câu hỏi được đặt ra "sao không thể lồng vào như một lời suy nghĩ của Nương". Ngôn ngữ trong phim nhiều khi không thực sự cần thiết và có phần thiếu tính mạch lạc tuy nhiên điều đó không có nghĩa là bộ phim không lôi cuốn khán giả mà đây chỉ là một điểm trừ nhỏ trong những dấu cộng lớn mà tác phẩm điện ảnh này đạt được.
c) Nhân vật truyện và diễn xuất của diễn viên
Nhân vật chính trong truyện gồm bốn người. Đó là: một người cha lầm lỳ ít nói mang trong mình trái tim đầy hận thù và những dồn nén tiêu cực về cuộc đời; một người đàn bà làm nghề bán thân với cuộc đời đầy đau khổ nhưng có trái tim biết yêu; hai chị em Nương và Điền với những nỗi đau hằn lên tâm hồn thơ dại.
Mỗi một nhân vật từ tác phẩm văn học bước vào phim đã chuyển ngôn từ thành hình ảnh hết sức chân thực. Tuy nhiên, cũng có một vài điểm khác so với tác phẩm.
Người cha với đôi mắt lạnh lùng. Ông xuất hiện trong mỗi cảnh quay đều là sự im lặng với vẻ mặt và những hành động đầy ghẻ lạnh và thù hằn khiến cho hai người con thường sợ hãi và tránh đối mặt với cha ngay trong cả những giao tiếp thông dụng nhất của cuộc sống. Sự khác biệt về cách diễn xuất của các diễn viên đã làm tác phẩm có thêm những tình tiết mới thêm vào chút ánh sáng của những gam màu yêu thương mà bấy lâu đã bị lãng quên trên cái màu xam xám bàng bạc của cuộc đời trôi nỗi.
Cô gái điếm hết thời và bị khinh miệt với một lớp bụi dạn dày cát phủ bên ngoài, bên trong là khát khao yêu đương, trong nữa là sự chịu đựng, nuốt tủi hờn. Diễn viên đã "vượt qua vùng an toàn" để nắm trọn thế giới của nhân vật. Tuy rằng kịch bản phim có thay đổi nguồn gốc xuất thân của nhân vật so với truyện, nhưng đấy âu cũng là dụng ý của người làm phim.
Trong truyện, Điền là một đứa trẻ sống nội tâm và ít thể hiện tâm trạng. Khi chuyển thể thành phim, nhân vật có khá nhiều thay đổi khiến cho người xem thấy được rõ hơn tầng bậc tâm lý phức tạp của cậu - của đứa trẻ quanh năm suốt tháng luẩn quẩn trong cánh đồng với bầy vịt.
Một cô bé Nương hồn hậu, trong sáng đã được diễn viên thể hiện rất thành công. Trong tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật Nương là một người kể chuyện. Toàn bộ câu chuyện về cuộc sống của gia đình được tái hiện qua lời kể chuyện của cô. Thiếu vắng người mẹ cùng với sự hận thù của người cha nên trong Nương cũng có tâm lý không ổn định, chới với, lúc nào cũng mang nặng sự đau đớn. Với đôi mắt lành lạnh, ngơ ngác nhìn mọi vật, với khuôn mặt bình thản nhưng đầy u uất, diễn viên đã thực sự chinh phục khán giả. Dù trong tác phẩm văn học hay trong điện ảnh, nhân vật Nương cũng thể hiện mình là một cô gái trong sáng đầy lương thiện với những khát khao hạnh phúc được sống gia đình bình thường.
2.2.2. Về nội dung
a) Phản ánh thực tế giá trị cuộc sống và nội tâm nhân vật
Câu chuyện đã được phim thực hiện gần như trọn vẹn, từ cốt truyện đến nhân vật, từ xung đột trung tâm đến hình tượng tác phẩm theo chủ đề chính của truyện đặt ra: Là tiếng thét câm lặng, uất ức với hiện thực về số phận bi thảm của người nông dân miền Tây bị đẩy vào những cuộc "hành trình bất tận" của nghèo đói, áp bức và sự thờ ơ vô cảm của xã hội.
Trên cái nền tương phản vô tận của vùng đất phương Nam, những số phận nghèo khổ ấy cứ phải trôi nổi. Tưởng như họ có thể dựa vào nhau, bao bọc lấy nhau nhưng rồi lại ly tán, để lại cho người đọc, người xem ấn tượng mạnh về dư vị đắng cay của sự bất lực, về cuộc sống, về những nỗi đau không thể xóa nhòa trong tim, cho dù ẩn sâu trong nó vẫn mênh mông tình người.
Cả phim và truyện đều tập trung đặc tả cảnh đời của bốn nhân vật vào một không gian hẹp trong con thuyền đơn côi, nhưng ở trên phim có vẻ gay cấn và dồn dập hơn so với truyện ngắn. Đó là sự chênh lệch tâm lý của các nhân vật. Một tâm trạng bất tín, tuyệt vọng đến ích kỷ ác độc đến đánh rơi bản chất để theo nung nấu và theo đuổi ý định trả thù; một kẻ sống cuộc sống cay nghiệt nhiều bất công và không được xã hội đón nhận dẫn đến thái độ liều lĩnh, bất cần; nỗi đau cùng niềm khát khao được yêu thương của hai chị em khiến cho bi kịch tâm trạng nhân vật luôn có khả năng bùng lên khi có tác động đúng chiều.
Cánh đồng bất tận là hình ảnh đại diện cho sự cơ cực của người nông dân, nhưng còn đó một cánh đồng khác đó là cái ác, lòng thù hận cay nghiệt của Út Võ, đó còn là cánh đồng của những khát khao hạnh phúc bé nhỏ của hai chị em Điền và Nương sâu xa hơn đó là cánh đồng của một hồi chuông thức tỉnh sự thờ ơ lạnh lùng của những con người trong xã hội để có những người sống trong loài người mà có cảm giác mình bị bỏ rơi.
b) Giá trị cuộc sống được thể hiện qua tác phẩm văn học và phim
Cánh đồng bất tận hay và hấp dẫn vì ngay từ đầu ta đã phải hình dung, tưởng tượng và tự mình xây dựng cho mình những hình tượng nhân vật. Trên những hình tượng ấy sự đau khổ tột cùng nội dung chuyển tải chủ yếu là sự lạc lõng, bơ vơ giữa bầy đàn và giá trị sống mưu sinh của con người.
Hai đứa trẻ lạc lõng chính trong gia đình, chúng chỉ như hình nộm câm lặng, dường như không dùng "tiếng người" để giao tiếp. Ông bố sống lầm lũi và hoang dại với những thù hằn. Ngay đến người đàn bà đĩ điếm không được xã hội dung thứ kia cũng bàng hoàng lạc lỏng trong chính cuộc đời mình. Câu chuyện qua lời kể của Nương cũng vang lên những tiếng kêu gào nhức buốt của những kiếp người. Họ đứng đó sừng sững giữa cuộc đời nhưng không biết mình tồn tại hay tồn tại để làm gì? Cánh đồng bất tận như một cái bóng phủ đầy màu xám bao trùm lên cuộc đời của từng nhân vật. Không gian hun hút và nơi đó lầm lũi những kiếp người, sống giữa mọi người nhưng lại không thể đưa bàn tay để chạm vào một bàn tay khác. Con người nhìn nhau bằng những dấu hỏi và việc thấu hiểu nhau trở nên quá xa vời. Con cái không hiểu những gì bố mẹ chúng làm, những người phụ nữ không thể hiểu sức mạnh của sự cuốn hút từ người đàn ông của đồng ruộng. Và đến ngay cả hai đứa trẻ cũng lạ lẫm trong cách hành xử của nhau. Trong truyện có một câu rất quen thuộc "tưởng sống khó chứ chết đi thì dễ ợt" đó phải chăng là nội dung chủ đạo mà tác phẩm hướng tới.
Quyền sống và hạnh phúc của con người đã được nói đến nhiều nhưng ở Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư muốn cảnh báo con người về ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Không gào thét, không ồn ào nhưng nếu đọc tác phẩm mà bên trong bạn không quặn thắt những đợt sóng về nỗi niềm băn khoăn về kiếp sống làm người xin bạn hãy đọc lại tác phẩm với một cái đầu tỉnh táo và nhân văn. Từ văn học đến điện ảnh cũng không làm mất đi cái hình tượng chủ yếu về giá trị nhân đạo mà ngược lại nó càng thể hiện rõ ràng hơn. Trong phim chính những diễn viên đã làm nên được giá trị nhân đạo. Đó là tình cảm con người trao nhau đầy thương mến, đó là cái nhìn khắc khoải đau đớn của những tâm hồn thơ dại muốn tìm về chốn bình yên, đó là những nỗi đau câm nín trong lòng để rồi những bất hạnh tê tái sau cùng phủ lấy thổi phăng tất cả... Điện ảnh đã truyền tải đầy đủ và sâu sắc nhất giá trị nhân đạo mà văn học muốn hướng tới.
III. Ý kiến phản hồi về truyện và phim
Truyện và phim Cánh đồng bất tận cũng có nhiều lời khen nhưng cũng không thiếu tiếng chê bai. Đối với truyện, như Nguyễn Ngọc Tư "đôi lúc ví von mình như trái sầu riêng, người thích thì cho rằng nó thơm người không thích thì cho rằng nó thối". Quả đúng như vậy, truyện ngắn đã đạt được nhiều giải thưởng bởi giá trị hiện thực và giá trị nhân văn của nó. Sự thành công lớn nhất là truyện khiến cho người đọc phải trăn trở, chiêm nghiệm về cuộc đời thực và phải suy ngẫm tìm hiểu để đưa ra kết luận đúng sai của mình đối với các vấn đề xã hội trong tác phẩm. Truyện hiện thực từ cuộc sống xã hội đến diễn biến tâm lý con người. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng kết thúc truyện "thiếu tính nhân bản", "kết thúc tàn nhẫn".
Sau khi chuyển thể, bộ phim đã giành được 05 giải thưởng lớn tại Cánh Diều 2010 (giải thưởng uy tín của hội Điện ảnh Việt Nam), nằm trong top những bộ phim Việt Nam có doanh thu cao nhất năm 2010 và gây rất nhiều dư luận, bộ phim Cánh đồng bất tận tham gia tranh giải tại Đại hội Điện ảnh Việt Nam lần thứ 5 (ViFF) tại Mỹ và tiếp tục giành hai giải thưởng quan trọng - đó là giải Nam diễn viên xuất sắc và Nữ diễn viên xuất sắc của ViFF lần thứ 5 cho Dustin Nguyễn và Đỗ Thị Hải Yến. Điều đó chứng tỏ được thành công của bộ phim. Song cũng có nhiều ý kiến phản hồi khác nhau.
Ông William Horberg, từng là nhà sản xuất phim The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng, 2002) và Milk (bộ phim đã thắng 2 trong số 8 đề cử Oscar 2009), chia sẻ ngắn gọn: "Cánh đồng bất tận là bộ phim mạnh mẽ nói về thân phận con người. Chính vì điều đó, với cương vị là thành viên Viện hàn lâm điện ảnh, tôi muốn giới thiệu phim này tại Mỹ", (trích vnexpress). NSND Đặng Nhật Minh thì cho rằng: "Đoạn cuối hơi bạo lực, nếu tiết giảm đi một chút nữa thì câu chuyện hài hòa hơn".
Phạm Xuân Nguyên, một người tự nhận là khá so đo khi xem các phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học cho rằng: "xem phim này tôi cảm thấy được xem một tác phẩm điện ảnh".
Tuy rằng tiếng chê cũng không ít kể từ khi bộ phim được công chiếu. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đã có bài nhận xét về tính photoshop của truyện Nguyễn Ngọc Tư: đạo diễn "đã rất lúng túng từ khi xử lý góc nhìn của bộ phim. Đáng tiếc, anh đã quá lệ thuộc vào lời thoại của tác phẩm văn học. Chính vì không hiểu hay không dám hiểu giá trị nhân văn chính của tác phẩm văn học trong việc xây dựng tính cách nhân vật". Phim "đã đánh mất cái đẹp sâu sắc tiềm ẩn trong tính cách của mỗi số phận trong Cánh đồng bất tận. Điều đó đã khiến cho dàn diễn viên nổi tiếng của anh có những vai diễn đáng thất vọng trong bộ phim này. Có những ý kiến cho rằng một số diễn biến, tình tiết, và nhất kết thúc của bộ phim đã làm giảm đi giá trị mà chủ đích của tác phẩm văn học hướng tới.
Với chúng tôi, xin trích ý kiến của đạo diễn Phan Nguyễn Quang Bình làm đoạn kết cho bài nghiên cứu: "Khi bạn xem phim bằng sự soi mói, bạn sẽ không bao giờ thấy được cái hay của nó. Đạo diễn Vũ Ngọc Đãng lần đầu xem phim cũng nói diễn viên Hải Yến chưa tốt. Nhưng khi anh ấy bỏ lớp áo lý trí, xem bằng cảm xúc thì lại nói rằng rất thích và cảm động. Tôi phải nói cảm ơn Dustin và Hải Yến. Phim này có bốn nhân vật chính, và xuyên suốt là nhân vật Nương. Với những diễn viên gạo cội, chắc chắn họ sẽ không muốn nhường đất cho người khác. Nhưng cả hai diễn viên này đã có khi như một dàn bao để đẩy hai diễn viên trẻ lên. Chứ nếu nhân vật nào cũng muốn mình mạnh hơn, thì chắc chắn sẽ khó lòng mà phim hay được. Nếu hai diễn viên nhỏ bị hai diễn viên gạo cội cuốn đi thì cũng sẽ mờ nhạt ngay lập tức. Trước đây, trong phim Việt Nam, các diễn viên diễn rất đều nhau, vì họ không có đường dây tình cảm, tưởng hay mà hóa ra không có điểm nhấn. Bộ phim này tôi cố gắng làm điều đó. Và bạn sẽ thấy có những điểm nhấn trong diễn xuất của từng diễn viên."
KẾT LUẬN
Khi xem bộ phim này, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư nhận xét rằng phim có rất nhiều cảnh quay đẹp và cũng đã truyền tải được nội dung, ý nghĩa thể hiện trong tác phẩm văn học. Nếu có những đánh giá về Cánh đồng bất tận văn học với Cánh đồng bất tận điện ảnh sẽ là sự khập khiễng bởi đây là hai loại hình nghệ thuật khác biệt và có những đặc trưng riêng của mình. Có đúng với hình dung và lay động được cảm xúc của người xem hay không còn tùy thuộc vào cảm nhận của mỗi người. Cánh đồng bất tận là một bộ phim góp phần thêm hương sắc cho điện ảnh nước nhà.
Nguyễn Thị Hà - Trần Anh Tuấn
(SV ĐH Văn Hiến)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp văn Ngày mai của những ngày mai của Nguyễn Ngọc Tư-nxb Phụ Nữ -2009
2. Nguyễn Ngọc Tư Tập truyện ngắn cánh đồng bất tận- nxb trẻ-2010
3. Nguyễn Ngọc Tư gió lẻ và chín câu chuyện khác- nxb trẻ-2010
4. Yêu người ngóng núi tản văn Nguyễn Ngọc Tư -nxb trẻ-2011
5. Nghệ thuật với văn học bản tác giả gửi phongdiep.net
6. Phongdiep.net
7. http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Dien-anh/407925/Nguoi-o-lai-voi-Canh-dong-bat-tan.html
8. http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/358942/Vat-va-tren-Canh-dong-bat-tan.html
9. http://vtc.vn/13-266085/van-hoa/khong-nhieu-sex-canh-dong-bat-tan-vi-sao-van-hot.htm
10. http://www.doctin.vn/dao-dien-nguyen-phan-quang-binh/%C4%91%E1%BA%A1o+di%E1%BB%85n+nguy%E1%BB%85n+phan+quang+b%C3%ACnh-122875_tag.html
11. http://megafun.vn/channel/1522/201010/Lan-Ngoc-bat-mi-ve-canh-nong-trong-Canh-dong-bat-tan-102959/
12. http://www.sgtt.com.vn/Van-hoa/131607/Gap-Nuong-va-Dien-trong-emCanh-dong-bat-tanem.html
13. http://www.tienphong.vn/Van-Hoa/517425/Canh-dong-bat-tan-nhin-tu-hang-ghe-khan-gia.html
14. http://kenh14.vn/c8/2010102402053999/canh-dong-bat-tan-buc-tranh-buon-sau-sac-cua-nguoi-viet.chn
15. http://congannghean.vn/NewsDetails.aspx?NewsID=10381
16. http://tapchithoitrangtre.com.vn/2011/04/25/canh-d%E1%BB%93ng-b%E1%BA%A5t-
17. http://www.zing.vn/news/phim-viet-nam/dao-dien-canh-dong-bat-tan-im-lang-trong-tam-bao-du-luan/a96830.html%E1%BA%ADn-l%E1%BA%A1i-th%E1%BA%AFng-l%E1%BB%9Bn/