Nhà văn Trần Thanh Giao - cuộc đời và sự nghiệp (Phạm Thị Bích Thảo)

 

Nhà văn Trần Thanh Giao (bên trái)

.Nhà văn Trần Thanh Giao sinh ngày 19 tháng 5 năm 1932 trong một gia đình có nguồn gốc nông dân ở xã Thới Long, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Cha ông là Trần Hữu Tốt, làm thư kí hành chánh sau đó rời quê lên Sài Gòn làm thư kí cho hãng tàu buôn SAMI của Pháp. Mẹ là bà Ngô Thị Hậu, quê ở Thị xã Gò Công "Tuy ít học nhưng cũng thuộc rất nhiều thơ, bà thường đọc thơ cho tôi nghe và tôi đã say sưa, mơ màng thiếp đi trong những vần thơ tuyệt vời ấy...". Sinh ra trong một gia đình yêu nước đã nuôi dưỡng và hun đúc cho ông tình yêu quê hương đất nước từ rất sớm. Nhà văn tâm sự " Cha tôi và các bác tôi là những tấm gương về chí tiến thủ... và cũng là tấm gương về lòng yêu nước cho tôi khi ông đã sớm đứng về phía Việt Minh trong lúc quê tôi có rất nhiều giáo phái, đã nhẹ nhàng bỏ lại nhà cửa ruộng vườn để ra bưng biền kháng chiến".

Trần Thanh Giao học nhiều trường: ở Gò Công, Cần Thơ, Sài Gòn... từ tiểu học lên trung học và học giỏi đều ở tất cả các môn. Lúc nhỏ, ông sống ở Sài Gòn trong sự biến đổi dữ dội của lịch sử. Đến năm ông mười tuổi, khi Mỹ ném bom xuống chợ Bến Thành, gia đình ông tản cư về Cần Thơ. Và ông đã trải qua những kí ức tuổi thơ trong sáng ở vùng quê Ô Môn yêu dấu của mình "Từ huyện lỵ, tôi ngồi xuồng về làng. Như bao nhiêu làng khác ở vùng này, làng tôi nằm dọc theo một con rạch, hai bờ soi bóng vườn tược, cây trái xanh um. Đường làng chạy cặp bờ. Thỉnh thoảng những con rạch, con mương cắt ngang. Đường cứ được nối bằng những cây cầu, khi là một tấm ván, khi là một thân cây dừa bắc ngang, có khi là cả một chiếc cầu gỗ ba nhịp, nhưng nhịp giữa cao vượt lên để những chiếc ghe mui lớn có thể qua lại dễ dàng". Miền cảm xúc của tuổi thơ luôn hiện hữu trong tâm trí ông, day dứt và trở đi trở lại trong lúc ông cầm bút. Những năm học trung học, ông tham gia Đoàn học sinh kháng chiến (do Mặt trận Việt Minh lãnh đạo) hoạt động bí mật trong các trường học vùng tạm chiếm. Thực ra, từ trước Cách mạng tháng Tám, ông cũng đã gia nhập đội Thiếu niên Tiền phong và làm liên lạc cho báo Kèn gọi lính. Sau ngày 9/1/1950 ( ngày thực dân Pháp đàn áp học sinh dẫn đến cái chết của Trần Văn Ơn), phong trào học sinh thành thị lên cao, Trần Thanh Giao được bầu làm thư kí ban đấu tranh công khai của phong trào học sinh Cần Thơ, tổ chức những cuộc bãi khóa hưởng ứng phong trào học sinh Sài Gòn... Sau cuộc biểu tình ngày 19/3/1950, ông được tổ chức đưa vào chiến khu 9.

Lúc còn là học sinh hoạt động trong thành phố, ông được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác, hiểu rằng giai cấp công nhân là giai cấp có nhiều đức tính để lãnh đạo cách mạng nên khi ra chiến khu, ông vừa làm ở tòa soạn báo Độc Lập Nam Bộ (trông nom in ấn, trình bày, sửa mo-rát), vừa làm thợ nhà in, mong mỏi học tập và rèn luyện trong môi trường công nhân. Về sau ông chuyển về tổ nghiên cứu, đọc sách báo của Liên Xô và Phòng thông tin quốc tế cộng sản chuyển thẳng từ Pari về, chủ yếu là qua tiếng Pháp để biên soạn thành những tài liệu tuyên truyền cho trí thức thành thị.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và được phân công về Nhà in báo Nhân Dân. Làm việc theo ca nên có khá nhiều thời gian rảnh, vì thế ông đã tìm đến với sách và đọc một cách say sưa, miệt mài "tôi đọc sách, nhất là sách kinh nghiệm sáng tác lúc đó in ra khá nhiều... Những buổi làm đêm trong khi nghỉ chờ bài tòa soạn đưa sang, tôi cũng tranh thủ viết,có khi ba giờ sáng xong việc, bất chợt có cảm hứng, tôi cũng ngồi dưới ngọn đèn cầu thang mà viết". Trần Thanh Giao đã làm việc và sáng tác với một niềm đam mê. Ngọn lửa nhiệt huyết luôn cháy trong từng mạch máu của ông và thôi thúc ông không ngừng sáng tác.

Cuối thập niên năm mươi, Trần Thanh Giao được cử đi học khóa I lớp báo chí do Ban Tuyên huấn Trung ương mở và về làm phóng viên Ban công thương nghiệp báo Nhân dân. Những ngày đánh Mỹ, ông được cử làm phóng viên thường trú của báo Nhân dân ở Nghệ An. Năm 1969, ông xin sang Lực lượng sáng tác văn học công nhân của Tổng Công đoàn Việt Nam đồng thời còn làm Biên tập viên của Nhà xuất bản Lao động. Khi lực lượng sáng tác văn học công nhân không còn, ông về làm báo Thống Nhất từ năm 1971 đến năm 1975. Nước nhà thống nhất, ông lại được điều động trở lại vào Nam làm báo Giải Phóng, sau đó là báo Đại đoàn kết.

Từ năm 1981 đến nay, Trần Thanh Giao từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Ban chấp hành Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh: Ủy viên Ban Chấp hành các khóa 1, 2, 3, 4, 5; Thư ký thường trực khóa 1; Phó Tổng biên tập tạp chí Văn; Trưởng trại sáng tác và bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ khóa 1, 3, 4, 5; Phó ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6, 7; Thường trực cơ quan đại diện phía Nam Hội Nhà văn Việt Nam khóa 6, 7.

Là một nhà báo nên ngoài sáng tác văn học, ông còn viết báo với mọi thể loại từ tin tức đến tường thuật, ghi nhanh, phỏng vấn, phóng sự, bút ký, tùy bút, chuyên luận, xã luận, tiểu phẩm...với các bút danh Song Thanh (báo Nhân dân 1961 - 1967), Anh Giao, Lê Đằng, Minh Giao (báo Giải phóng, Đại đoàn kết 1975 - 1982), Cân Tiểu Ly (báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh 1992 - 1996), Song Văn (tạp chí Văn 1991, Nhà báo và Công luận 1997)...

Suốt cuộc đời cầm bút với những năm tháng lăn lộn ở chiến trường sống và viết, rồi những năm tháng hòa bình nhiều trăn trở, suy ngẫm đủ để ta thấy được một con người say mê với nghệ thuật. Với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.

Thuộc thế hệ nhà văn xuất hiện sau thời kì chống Pháp, Trần Thanh Giao được bạn đọc bắt đầu biết đến với truyện ngắn Câu chuyện một chiều thứ bảy đoạt giải thưởng của báo Thống nhất năm 1959. Cho tới nay, nhà văn quê gốc miền Tây này đã xuất bản nhiều tác phẩm với nhiều thể loại như: ký, tản văn, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, dịch, phê bình, khảo cứu... Bước vào tuổi bát tuần, ông vẫn xông xáo đi và viết với nhiệt thành như thuở mới bước vào làng báo, làng văn. Ông nói: "Cuộc đời tôi là những chuyến đi không ngừng. Từ thuở còn học trung học ở Cần Thơ, tôi đã liên tục đi về giữa Cần Thơ - Mỹ Tho - Sài Gòn để vận động phong trào học sinh yêu nước. Vào chiến khu, tôi làm báo, nghề báo là nghề...đi. Nhờ đó, tôi có một đôi chân dẻo dai, đi không biết mệt" (trả lời phỏng vấn báo Sài gòn Giải phóng, 4-8-2001)

Cả một đời sáng tạo nghệ thuật trên năm mươi năm, ông luôn chu toàn, cẩn trọng trong mỗi trang viết. Chẳng những đi nhiều, viết nhiều mà nhà văn Trần Thanh Giao còn tiên phong trong làng văn mở trang web cá nhân www.tranthanhgiao.com, đăng tải các tác phẩm của ông và bạn bè đồng nghiệp. Cả đời gắn bó với nghiệp văn và giữ được ngọn lửa đam mê đến cùng như Trần Thanh Giao chẳng phải dễ.

Trần Thanh Giao say mê với nghiệp văn chương và luôn trau dồi cho mình các nguồn tri thức và vốn ngoại ngữ "Tôi rất sợ khi mình chưa trang bị đầy đủ mà đã ngồi trước trang giấy trắng". Ông đọc nhiều và cũng đi rất nhiều nơi nhưng bầu nhiệt huyết trong ông chưa bao giờ cạn. Đó là một con người luôn chú ý đến sự học hỏi, nỗ lực tự học không ngừng.

Với vốn liếng học hành sẵn có, Trần Thanh Giao có thể bắt đầu một cuộc đời khác ngay cả khi tham gia cách mạng nhưng ông đã phấn đấu để trở thành một người thợ, mong mỏi học tập và rèn luyện trong môi trường công nhân. Trong xã hội nào thì cuộc đời làm thợ cũng rất vất vả, tuy có chút tiếc nuối nhưng ông tâm sự: "Làm thợ hay làm bất cứ nghề gì thì rồi tôi cũng sẽ viết văn, việc trở thành nhà văn nó giống như là một tiền định".

Trần Thanh Giao yêu lắm vùng quê Nam Bộ của mình, nơi mà ông đã từng sống, làm việc và gắn bó như máu thịt "Làng quê tôi nằm bên bờ sông Hậu, một trong hai nhánh của sông Mêkông chảy qua đồng bằng Nam Bộ. Nhưng mãi đến khoảng mười tuổi, tôi mới biết sông nước quê mình, bởi vì tuổi ấu thơ của tôi trôi qua giữa phố phường Sài Gòn đông đúc. Những năm ấy, phát xít Nhật chiếm Đông Dương, rồi bom Mỹ ném xuống chợ Bến Thành, tôi theo gia đình tản cư về quê. Cả bức tranh vùng quê sông nước hiện lên đột ngột, hấp dẫn và kỳ thú vô cùng đối với một cậu bé thành thị mười tuổi như tôi". "Sông Mêkông, một trong những con sông lớn của châu Á đã chảy qua quê tôi trước khi tuôn trào ra biển. Trong dòng nước bạc, ngàn đời chở nặng phù sa đó có bao nhiêu loài tôm cá đi qua, lưu lại, sinh sôi nảy nở. Cũng đã bao đời vườn tược xanh um cây trái, bốn mùa soi bóng xuống dòng sông. Một vùng quê với gạo trắng nước trong, với cá to tôm lớn, với trái ngọt cây lành. Con người hiểu con tôm con cá và hiểu được quê hương. Từ con tôm, con cá, từ sinh hoạt bình thường ngày này qua tháng khác mà hiểu thêm tâm tình và tính cách con người của một vùng quê mênh mông sông nước...". Nhân vật xuyên suốt các tác phẩm của ông là con người Nam Bộ. Bởi lẽ ông là con em của Nam Bộ, đi kháng chiến rồi tập kết ra Bắc, ông thông thuộc những con người này như thông thuộc chính bản thân ông vậy.

Tiếp đón chúng tôi tại nhà riêng số 7 đường Phạm Cự Lượng, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, ông niềm nở chia sẻ về quãng đời cầm bút của mình. Mặc dù đi và sống rất nhiều nơi nhưng tính cách hào phóng, đậm chất của một người nông dân Nam Bộ hiền lành, chân chất vẫn ẩn hiện bên trong con người có vóc dáng nhỏ bé ấy.

Cuộc đời nghệ thuật đầy gian truân, khổ ải nhưng ông có ý thức không bao giờ lặp lại mà luôn tìm cách làm mới mình. Với ông nghệ thuật là phải sáng tạo và sự sáng tạo ấy phải bắt đầu từ cảm xúc tha thiết rộng lớn của nhà văn. Như những cánh chim bay không biết mỏi, Trần Thanh Giao dành cả cuộc đời cho văn chương nghệ thuật, tuy sáng tác không nhiều, sức viết không ồ ạt, mạnh mẽ nhưng dẻo dai, bền bỉ.

 

Hành trình sáng tác của Trần Thanh Giao trải qua bao thăng trầm cuộc sống nhưng ông luôn trân trọng mỗi phút giây đã đi qua bởi đó chính là nguồn cảm hứng bất tận hướng trái tim ông đi theo con đường nghệ thuật. Trần Thanh Giao đến với văn chương và khẳng định vấn đề cốt lõi của văn chương chính là tầm tư tưởng, xuất phát từ mục đích nghệ thuật là nâng tâm hồn con người hướng về phía Chân-Thiện-Mỹ khiến con người trở nên cao thượng hơn.

 

Đi qua những nẻo đường chông gai của nghệ thuật, ông vẫn vô cùng lạc quan, luôn nâng niu từng nét đẹp trong cuộc sống "Tôi đọc sách hay trong nước và thế giới dần dần chiêm nghiệm ra rằng sách hay là sách trong đó cái đẹp và cái cao thượng làm rung động sâu sắc trái tim mọi người để cho con người trên trái đất này luôn sống với một trái tim rung động vì cái đẹp và cái cao thượng. Càng đọc, tôi càng tin rằng nếu không có tư tưởng lớn thì chẳng có tác phẩm lớn, dù ta có muốn đẩy một tác phẩm nào đó lên tới đâu...". Và vẫn hết sức quyết liệt, sắc bén khi nhìn vào những mặt trái của xã hội.

Chúng ta đều biết rằng văn chương hay, rung động lòng người là do sự hòa hợp chặt chẽ, không thể tách rời giữa tính tư tưởng và tính nghệ thuật. Giữa hai yếu tố đó, tư tưởng vẫn là cái quyết định, có tư tưởng mới có nghệ thuật. Trong bài viết "Thủ pháp nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Trãi", Trần Thanh Giao cho rằng trong văn chương, có thể "lấy giọt nước để nói đại dương", nhưng điều quyết định là phải có tư tưởng "đại dương", nếu chỉ có tư tưởng "giọt nước" thì dù có nói thế nào cũng không làm cho người khác nhìn "giọt nước" mà ra "đại dương" được.

 

Năm 1950, Trần Thanh Giao thoát ly gia đình ra chiến khu, sự nghiệp văn chương của ông cũng bắt đầu từ đó. Là người ham học hỏi và có năng khiếu, ngay từ khi còn học trung học ông đã bộc lộ khả năng viết văn của mình và được nhiều giáo viên khen ngợi. Hơn nữa, ông còn thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp nên có nhiều thuận lợi khi tiếp xúc với sách báo nước ngoài. Trong giai đoạn học trung học ở Cần Thơ, Trần Thanh Giao đã bắt đầu làm thơ, viết phóng sự nhưng không đáng kể. Những năm sống ở vùng giải phóng Cần Thơ, Rạch Giá và nhất là sống ở rừng U Minh dưới mũi Cà Mau đã để lại trong ông những ấn tượng đẹp đẽ nhất, là tuổi thanh xuân trong sáng nhất mà ông được nếm trải. Và vốn sống đó đã cho ông đề tài và cảm hứng để bắt đầu viết truyện.

 

Đến năm 1954 khi tập kết ra Hà Nội, lòng mong nhớ quê hương mới thôi thúc ông bước những bước đầu tiên vào làng văn. Truyện ngắn đầu tay của Trần Thanh Giao là Thăm nhà, được đăng trên báo Thống nhất năm 1958. Năm 1959, báo Thống Nhất mở cuộc thi viết truyện ngắn về đề tài đấu tranh thống nhất đất nước, Trần Thanh Giao đã hăng hái tham gia với truyện ngắn Câu chuyện một chiều thứ bảy. Nhà văn tâm sự  "Đặt tựa này cũng do lúc đó, trong cuộc sống hàng ngày của miền Bắc mới giải phóng, sự nhớ về miền Nam chưa đậm đà máu thịt như thời đánh Mỹ sau này, người miền Nam tuy có nhớ quê hương da diết nhưng chỉ là nỗi niềm hoài vọng...". Đây là truyện ngắn đầu tiên đưa ông đến với đông đảo bạn đọc, truyện được đứng đầu các giải Nhì của báo Thống Nhất (không có giải Nhất) và được chọn vào Tuyển tập Văn Việt Nam nhân dịp mừng 20 năm xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1965). Ngoài ra, còn được đưa vào Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam của Nhà xuất bản Văn học (1995) và được Giăng Mút-ska dịch ra tiếng Slo-vác trong tuyển tập truyện ngắn Châu Á do Nhà xuất bản Hội Nhà văn Slo-vác ấn hành năm 1979.

Truyện được đánh giá cao nhờ hai yếu tố: Thứ nhất là đã thể hiện được sắc thái rừng U Minh "Nơi đây là một rừng đước con. Cây mọc chi chít, chỗ dày chỗ thưa loạn xạ, có nơi cách nhau hàng mấy thước, có nơi chen người không qua lọt. Đước còn nhỏ, đều đều một loại bằng cổ tay. Thân cây thẳng tắp, cao chừng bốn năm thước. Trên ngọn là vài cành nhỏ màu xám đỏ, đeo mấy cái lá xanh. Gốc sát đất chỉ bằng ngón tay cái nhưng lên trên vài mươi phân lại có năm, sáu rẽ phụ ăn vòng ra, cắm xuống đất mường tượng như những chiếc răng nơm. Lá mục, cành khô, ô rô, cóc kèng... giăng đầy mặt đất. Thỉnh thoảng nhú lên những mầm non đen đen, như lưỡi mèo, hay trên các cành đung đưa vài quả cám bằng nắm tay mốc mốc. Ngước mắt trông lên, sương mù trùm xuống đầy rừng. Trời xanh chẳng thấy". Và thứ hai là lòng thương nhớ miền Nam với những kỉ niệm ùa về trong kí ức của Danh - một người con Nam Bộ tập kết ra Bắc.

Tất cả những tình cảm gắn bó với Nam Bộ trong thời gian ở chiến khu đã thôi thúc ông viết tập truyện ngắn đầu tay, sau này được nhà xuất bản Văn học ở Hà Nội in năm 1962, lấy tên một tác phẩm đạt giải thưởng truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1960 là Dòng sữa "Tất cả những truyện trong tập Dòng sữa đều là những kỉ niệm của tôi đối với quê hương Nam Bộ. Tập truyện lấy tên của một truyện ngắn mà tôi thích nhất trong số các truyện ấy". Dòng sữa như một nốt nhạc hòa vào bản anh hùng ca về sự hy sinh lớn lao của con người Nam Bộ trong cuộc kháng chiến. Nguyễn Tý trên báo Văn Nghệ số 338, 20/11/2002 có nhận xét:"Đọc truyện ngắn Dòng sữa chúng tôi thật sự xúc động. Một dòng sữa biểu tượng cho sự truyền thống nuôi con nhưng dòng sữa để cứu lấy một anh bộ đội bị thương kiệt sức từ bầu vú của một góa phụ mà chồng bị giặc phục kích bắn chết và dã man hơn chúng giết cả con chị". Từ một dòng sữa phút chốc trở thành biểu tượng lòng kiên trinh son sắt của phụ nữ Việt Nam góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cả dân tộc chính từ những ý thức cá nhân rất nhỏ bé này.

Thêm vào đó, những nhân vật hiện lên qua những trang viết của Trần Thanh Giao thật dũng cảm, thông minh, kiên cường và giàu lòng yêu nước như Ba Nở, Trai trong Lửa đêm (1959), Đặng trong Trăng lưỡi liềm (1969), trong truyện ngắn cùng tên (1972), Thanh trong Sao Mai gần gũi (1975)... Trong tâm hồn trong trẻo của họ là niềm tin và tình yêu đất nước "Tôi sợ mình không có một tình yêu trong suốt. Như tình yêu đất nước của cô!". Họ là những vì sao tỏa sáng trên nền trời đầy ắp khói lửa, đạn bom của chiến tranh và ánh sáng ấy chưa bao giờ tắt dù cho cái chết cận kề.

Bắt đầu từ những năm 1960, miền Bắc tiến mạnh vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Trần Thanh Giao được đào tạo thành một phóng viên, chuyên viết về đề tài công nghiệp. Vốn luôn ham thích sự sáng tạo, ông thường đi nhiều để học thêm, hiểu thêm về đất nước và con người. Vừa viết báo, vừa viết văn, ông luôn đòi hỏi sự nghiêm túc và niềm say mê với mỗi trang viết của mình. Các tác phẩm của ông ra đời trong thời gian này được đánh giá khá cao, có những cuốn được tái bản nhiều lần và được bạn đọc yêu thích. Đáng chú ý có tác phẩm Đi tìm ngọc (truyện vừa, Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1964, tái bản 1972,1987, Tủ sách vàng 2002 và được dịch ra tiếng Nga, Nhà xuất bản Thiếu nhi, Mát-xco-va, 1976), Cầu sáng (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1976, tái bản 1985).

 Các tác phẩm trên là kết quả của những ngày ông theo nghiệp cầm báo. Trần Thanh Giao đã không quản bao nhiêu khó khăn đi tìm hiểu, ngày đêm trên chiến trường để lấy tư liệu "Thâm nhập cuộc sống, có cái gì để viết và viết được là suy nghĩ thường trực chi phối toàn bộ cuộc sống của các nhà văn, nhà thơ và những người đang chập chững trên con đường văn chương ... Sự hy sinh vĩ đại của nhân dân trong việc chống chiến tranh phá hoại miền Bắc, chi viện miền Nam đã làm cho tôi dấy lên một tình yêu và lòng cảm phục vô bờ".

 Cuối năm 1967 đến đầu năm 1968, khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất đang lên đến đỉnh cao, xúc động mạnh mẽ vì những tấm gương anh hùng cứu nước, Trần Thanh Giao không ngần ngại xin cơ quan cho vào sống với công nhân đội cầu Hàm Rồng, chuẩn bị viết tiểu thuyết. Để viết tiểu thuyết Cầu sáng, ông đã đọc cả một giáo trình Đại học về kĩ thuật làm cầu. Cầu Hàm Rồng nằm trên trục đường sắt Bắc-Nam, trong chiến tranh phá hoại cây cầu là trọng điểm bắn phá của giặc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào Nam giải phóng đất nước. Hàng vạn tấn bom đạn được ném vào đây nhưng vẫn không ngăn nổi ý chí của dân tộc với phương châm: "Giặc phá ta sửa ta đi - rồi giặc phá ta cứ đi". Cầu Hàm rồng dù bị đánh tơi tả nhưng vẫn đứng vững, vẫn ngày ngày đưa những đoàn tàu chở súng đạn vào Nam chi viện cho tiền tuyến. Đó một phần không nhỏ nhờ vào ý chí chiến đấu ngoan cường của những cán bộ công nhân cầu đường. Và khi đứa con tinh thần được ra đời và đến với đông đảo bạn đọc Trần Thanh Giao không giấu được niềm vui của mình và chia sẻ "Vì là quyển tiểu thuyết đầu tay nên tôi làm việc khá vất vả. Trong quyển sách này, tôi muốn nói đến những con người Việt Nam bình thường, thậm chí có người còn nhút nhát nữa, làm thế nào để từ chỗ sợ tiếng rít của máy bay Thần sấm, Con ma đi đến chỗ không sợ cả bom Mỹ nổ quanh mình, tìm ra được quy luật của chiến tranh phá hoại, dù cho là hết sức hiện đại của Mỹ, bám trụ được giữa nơi bom đạn ác liệt, sống và bằng sức lao động có kỹ thuật, đầy khôn ngoan, sửa chữa và giữ vững chiếc cầu trên con đường huyết mạch từ Bắc vào Nam".

Cầu sáng dài 370 trang viết về những ngày đầu chiến tranh phá hoại miền Bắc, máy bay Mỹ đã đánh ngay vào cầu Hàm Rồng, một chiếc cầu hiểm yếu trên con đường chi viện của miền Bắc cho cuộc chiến giải phóng miền Nam. Kĩ sư Tùng, đội trưởng Thực, tổ trưởng Bằng, các thợ hàn Viễn, Nguyên... đến cả chị nuôi Hiền đều bám chặt cầu, sửa chữa và vá víu chiếc cầu mà mỗi thanh sắt đều mang trên mình ít nhất một vết thương. Ngay từ những ngày đầu cầu bị đánh, sắt thép ngổn ngang như "một đống rau muống chẻ", anh chị em không đợi kinh phí, bỏ tiền túi chỉ đủ ăn hàng bữa của mình lao vào cứu cầu. Cho đến những ngày máy bay ném bom ác liệt nhất, ném cả ngày đêm có khi không ngừng nghỉ hôm nào, cả đội lập ra đội Quyết thắng gồm anh chị em xung phong tình nguyện, những người thợ ưu tú có tay nghề cao nhất, bất chấp bom đạn, ngày đêm lên mặt cầu sửa chữa cho dòng người và hàng chi viện miền Nam không bao giờ ngưng chảy... Báo chí, đài phát thanh, truyền hình phương Tây đã nói rất nhiều đến cầu Hàm Rồng, chiếc cầu "biết tự băng bó thương tích, gục xuống rồi lại đứng lên", "chiếc cầu không giấu mình trong đêm mà giăng đèn sáng rực", một mục tiêu "rất dễ nhìn nhưng vô cùng khó nuốt"... làm cho chiếc cầu càng đi vào huyền thoại. Qua những trang viết hào hùng nhưng cũng không ít đau thương, chiếc cầu Hàm Rồng vẫn vững vàng, hiên ngang vượt qua mưa bom bão đạn và những con người làm nên lịch sử qua thời gian càng ngời sáng. Nhận xét về cuốn sách này, Xuân Cang viết "Trong cảm tưởng của chúng tôi lúc bấy giờ (1970), Cầu sáng thật hay. Nó là cái cầu Hàm Rồng sáng lên trong lịch sử, sáng lên dưới ánh chớp bom đạn của giặc Mỹ và dưới ánh lửa đạn quân dân ta bảo vệ cầu, nó sáng lên dưới ánh lửa hàn của công nhân ta sửa chữa cầu" (Lời bạt Ai tri âm đó, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2003). Bản thảo Cầu sáng được viết xong cuối năm 1969. Đáng lẽ tác phẩm ra đời trong thời gian này sẽ vừa cổ vũ cho người lao động trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa cổ vũ cho việc sáng tác về giai cấp công nhân. Tuy nhiên không biết vì lý do gì mà mãi đến năm 1976, Cầu sáng mới được ra mắt bạn đọc và lúc này nó chỉ còn là một nhân chứng cho lịch sử.

Nếu như với tiểu thuyết Cầu sáng, Trần Thanh Giao đã huy động rất nhiều vốn sống, nhất là vốn sống những năm ở mặt trận chống chiến tranh phá hoại thì tập truyện Đi tìm ngọc lại là kết quả của những chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh "Trên đường, những câu chuyện lạ của bạn bè, của đồng bào ở Quảng Ninh, ở các đảo cho tôi thêm nhiều chất liệu cảm xúc. Cốt truyện được hình thành qua những chuyến đi, những nhân vật hiện lên, có xương có thịt. Trong truyện, có cả bão tố,có cả sóng thần, có cả đánh nhau với bọn cướp biển, có cả truyền thuyết về đảo Thoi Xanh... Thật ra, vịnh Hạ Long có nhiều hòn đảo mà ông bà ta đã đặt cho những cái tên vô cùng gợi cảm, những tên đó còn lại đến bây giờ. Ví dụ đảo Chằn, đảo Phượng Hoàng, đảo Thoi Xanh, đảo Ngọc... Tôi mượn nguyên những tên đảo có thật ấy mà đưa vào chuyện, qua những chuyến đi đầy may mắn". Nguồn cảm hứng của tập truyện này bắt đầu từ chuyện các anh công nhân trong nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà đi tìm đá trứng ngoài đảo ở vịnh Hạ Long để chế tạo ruột bút chì, còn chi tiết thì lấy hoàn toàn từ cuộc sống thật mà ông đã trải qua những ngày còn bé. Đi tìm ngọc là những cuộc phiêu lưu trên biển đầy lý thú và cũng không ít khó khăn. Qua câu chuyện này chúng ta có thể thấy được rằng biển không những chỉ ra trước mắt chúng ta một thế giới xa lạ và tuyệt vời mà còn khẳng định rằng muốn làm bất cứ một công việc gì tiếp xúc với biển đều đòi hỏi ở con người lòng kiên nhẫn, giàu kinh nghiệm và sự hiểu biết. Bởi vì biển không chỉ đơn thuần là con đường giao thông cho tàu và thuyền, không chỉ là vựa chứa sự giàu có và kho báu vật, mà biển còn hun đúc cho con người lòng dũng cảm, vì có khi biển gây trở ngại cho chúng ta như một kẻ thù. Hơn thế nữa, truyện còn giúp ta yêu hơn những con người lao động không bao giờ chịu khuất phục trước thiên nhiên khắc nghiệt. Tác phẩm còn tiêu biểu cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc "Lần này, chúng tôi đi, chẳng những đã tìm ra đá quý mà còn tìm ra những con người rất quý, có tấm lòng yêu chủ nghĩa xã hội nồng nàn, rất cần và rất quý gấp nhiều lần những viên ngọc đẹp". Truyện được rất nhiều bạn nhỏ ưa thích và nhờ tác phẩm này, Trần Thanh Giao được Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tặng huy hiệu "Vì thế hệ trẻ".

Như vậy, giai đoạn này Trần Thanh Giao đã sớm khẳng định được tên tuổi của mình trong "làng văn" với các tác phẩm đạt giải cao trong các cuộc thi. Đó là một sự khởi đầu khá thuận lợi cho một người cầm bút, các tác phẩm của ông được đánh giá khá cao và được đông đảo bạn đọc yêu thích.

Năm 1975, Trần Thanh Giao được điều động về Sài Gòn, vẫn với nghề nghiệp là phóng viên, bổ sung cho tờ báo Giải Phóng - Cơ quan của Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trở về Sài Gòn sau 25 năm xa cách, ông lại trăn trở với những số phận con người. Trong giai đoạn này, ngoài đề tài về chiến tranh thì đề tài về thành phố mới được giải phóng cũng thu hút mối quan tâm của rất nhiều bạn đọc, cả trong và ngoài nước, nhất là những người di tản...Vì vậy Trần Thanh Giao đã chọn xưởng đóng tàu Ba Son để đi thực tế. Lúc này, ông cho rằng tiểu thuyết không có sức tác động nhanh bằng phim nên ông đã bắt tay vào viết truyện phim Giữa hai làn nước. Bản thảo được viết xong vào giữa năm 1976, được Xưởng phim Giải phóng cho ra mắt khán giả năm 1978 và Nhà xuất bản Văn hóa in năm 1979. Truyện phim Giữa hai làn nước viết về công nhân và cán bộ của một nhà máy đóng tàu với những vấn đề mới mẻ trong cuộc sống khá nhiều bộn bề của đất nước ta sau giải phóng. Qua đó ca ngợi những con người kiên trung với cách mạng, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước. Truyện phim này do đạo diễn Lam Sơn (Bùi Sơn Duân) viết kịch bản phân cảnh và dàn dựng. Phim được giới thiệu trên trang bìa bốn báo Ảnh Việt Nam, được chiếu khai mạc tuần phim kỉ niệm Quốc khánh Việt Nam tại Mat-xco-va...Báo Đoàn kết của Việt kiều ở Paris cũng có bài viết về phim này. Năm 1980, phim Giữa hai làn nước đạt bằng khen tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ V.

Những năm Sài Gòn vừa mới giải phóng, nhiều vấn đề mới đặt ra, mở rộng phạm vi đề tài của văn học. Một trong những vấn đề lớn là số phận của những người chưa có nghề nghiệp lao động phù hợp với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trần Thanh Giao biết đó là một đề tài rất mới, song số phận của những con người ấy thôi thúc ông viết để cỗ vũ họ. Năm 1979, quyển tiểu thuyết Đất mới vỡ dài 285 trang của Trần Thanh Giao được Nhà xuất bản Phụ nữ cho ra mắt bạn đọc viết về một chủ trương lớn của thành phố là vận động những người không có công ăn việc làm, kể cả tiểu thương và một số tầng lớp nhân dân khác đi xây dựng vùng kinh tế mới, tác động đến rất nhiều số phận con người. Cuốn sách phản ánh những khó khăn và những nỗ lực ban đầu của thời kì này. Ba năm sau, nhà xuất bản cho in lại lần thứ hai với số lượng là 16.000 bản đủ cho chúng ta thấy sức hấp dẫn của cuốn sách.

Nhận xét về cuốn sách này, Hồng Lực trên báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh có viết: "Tác giả đã xây dựng một hình tượng nhân vật mới là tiểu thương đi lập nghiệp mà trước đây trong văn chương thường chỉ có các nhân vật công nông binh". Nguyễn Thị Kim Anh trong 25 năm một vùng tiểu thuyết (Nxb Khoa học xã hội, 2002) có nhận xét: tác giả "Dựa vào khung cảnh, con người Thành phố Hồ Chí Minh", chuyên chở tư tưởng chủ đạo "con người dù xuất thân bất cứ thành phần xã hội nào cũng đều có ý thức vươn tới cái thiện, cái toàn bích, và do thiên hướng bẩm sinh ấy, họ sẽ tự cải tạo và nâng mình lên trong cuộc sống".

Trần Thanh Giao viết báo và viết văn gần như song hành trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, trong đó bút ký là thể loại vừa gần với báo chí vừa gần với văn. Chính vì thế mà Trần Thanh Giao còn được bạn đọc biết đến như một nhà văn viết nhiều bút ký. Trong văn học, các thể loại luôn được đặt trong quan hệ đồng đẳng về giá trị nghệ thuật. Song mỗi thể loại là sự thể hiện "một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người" (Bakhtin). Đó là sự vận động tất yếu của đời sống thể loại. Bút kí có một thế mạnh mà các thể loại sáng tác văn học khác không có, đó là ghi lại những người thật, việc thật, và người viết là một nhân chứng lịch sử. Sau giải phóng, Trần Thanh Giao viết về con đường xe hơi xuyên qua rừng Sác trong bút ký Đường xe xuyên rừng Sác (Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1985) và đoạt giải thưởng bút ký báo Sài Gòn giải phóng năm 1985, hay ghi lại công việc của các phi công lái máy bay lên thẳng phục vụ khai thác dầu khí ngoài thềm lục địa trong bút ký Bầu trời thềm lục địa (Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1986) và đạt giải thưởng bút ký Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1986... Tác phẩm chủ yếu nói về những thay đổi của Thành phố và miền Nam sau 10 năm giải phóng. Ngoài ra còn có rất nhiều các bút ký khác như: Bảy mươi năm sau, nơi Bác ra đi (1981); Ngõ hẻm ban mai, Cá sấu rừng Sác (1984); Đêm bình yên (1998); giải thưởng bút ký Bộ Giao thông vận tải (năm 2000) với Ai vượt Cửu Long Giang trên cầu Mỹ Thuận; Trở lại rừng Sác; Đến nhà mồ Ba Chúc (2001); Nhớ lắm Cà Mau; Về chiến khu xưa; Vùng sâu; Miền quê sông nước (2002)... Bên cạnh bức tranh muôn màu muôn sắc của cuộc sống đương đại, bút ký của Trần Thanh Giao vẫn là chân dung hiện thực của đất nước, của dân tộc qua chiều dài của thế kỉ. Những dòng chữ chân thực nhưng vẫn tràn đầy trân trọng, yêu thương đã để lại cho người đọc niềm xúc cảm sâu xa về từng con người cụ thể với từng tâm hồn và số phận riêng tây. Họ là những nhân vật chính của cảm hứng "thế sự - đời tư" đang ngập tràn trong văn chương thời kì đổi mới.

Vào thời điểm 1980 - 1985, do không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu cũ vì đi trái với quy luật tự nhiên nên thay vào đó là một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu mới. Sau gần mười năm thâm nhập thực tế ở Cần Giờ, Trần Thanh Giao bắt tay vào viết tiểu thuyết Một thời dang dở năm 1985, khi đất nước vừa có những chuyển động mới tích cực. Đối với Trần Thanh Giao có lẽ đây là cuốn sách tâm đắc nhất bởi ông đã dồn nhiều tâm huyết cho cuốn thiểu thuyết dài 566 trang này, riêng thời gian nghiền ngẫm chủ đề đã là rất dài. Cốt truyện cũng như các nhân vật trong tiểu thuyết đều không có sẵn, không có nguyên mẫu, đều do tác giả dựng nên. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ đổi mới và dự báo mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ sẽ sụp đổ trên toàn thế giới. Tiểu thuyết Một thời dang dở ghi nhận những nỗi niềm, tâm trạng cùng những số phận con người giữa những mâu thuẫn xã hội, kinh tế âm ỉ mà khốc liệt suốt mười năm hậu chiến "Mai sau em lớn lên, thấy pháo nổ nơi nào là nơi đó trái tim chị cũng đang vỡ tan thành muôn ngàn xác đỏ. Cứ nhặt lên em, những mảnh tim còn sót lại, và đốt tiếp lên cho nó vỡ tan tành... Trong niềm vui có tiếng kêu đau đớn, em có nghe chăng?". Trong những năm tháng hòa bình của đất nước, thế hệ trẻ hãy nhớ lấy nỗi đau của những con người muốn hướng thiện trong hoàn cảnh trói buộc của quá khứ. Và hãy phân tích đến tận cùng những góc khuất còn sót lại của những bi kịch mà trong điều kiện hạn chế nhà văn chưa thể lí giải hết. Đó là điều đau đáu khôn khuây mà nhà văn Trần Thanh Giao muốn gửi gắm cho thế hệ trẻ.

Cuốn sách viết xong năm 1987 và in năm 1988, sau đó được đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Tiếng nói nhân dân thành phố Hồ Chí Minh lần lượt phát trên sóng. Cuốn sách in ra cũng có ít nhiều dư luận. Thanh Vân trên Văn nghệ Đồng Nai số 103, tháng 3 năm 1989 có viết "Đã đành như tên của tiểu thuyết, cái dang dở, bừa bộn là dấu ấn chung của cả một thời, nhưng chính cái dang dở riêng của từng số phận đã thu hút sự quan tâm của bạn đọc... Đọc cuốn tiểu thuyết hơn 500 trang có lắm điều để suy nghĩ, đồng cảm, tâm đắc trở thành chuyện mong đợi. Một thời dang dở của Trần Thanh Giao đáng được xếp vào số những cuốn tiểu thuyết được mong đợi này", Ngọc Tĩnh (Mai Quốc Liên) trên báo Nhân dân chủ nhật 15/4/1990 nhận xét đây là "cuốn tiểu thuyết gây được ấn tượng", hay Nguyễn Đình Thi trên báo Nhân dân ngày 21/10/1989 nhận xét "Tôi đọc Một thời dang dở của Trần Thanh Giao thấy những trang viết công phu, với màu sắc thật là Nam Bộ, trong đó những nhân tố mới của cuộc sống đầy khó khăn của chúng ta được tác giả hết sức tìm kiếm, nâng niu. Đây là một công trình lao động đứng đắn, vậy mà trên báo chí văn nghệ chưa nói đến". Và gần hai mươi năm sau, Phạm Thị Minh Thư đọc lại cuốn sách và viết "Phải chăng những đau đớn, dằn vặt, những hồi hộp và thao thức trước các biến động xã hội giữa thập niên tám mươi, các biến động thật sự quan thiết với con người lý tưởng trong anh, đã làm bừng thức phần nhà văn vốn bị lối viết của "một thời dang dở" che khuất? Dòng chảy của một cảm xúc chân thành mạnh mẽ, sau 17 năm, vẫn lôi được một người đọc là tôi, vào với mỗi vui buồn, được mất của các nhân vật tiểu thuyết (Một thời dang dở), thực sự cảm thấy nhớ nhung khi chia tay từng người." (Văn nghệ 18/9/2004).

Trong giai đoạn này, Trần Thanh Giao tiếp tục phát huy thế mạnh của mình đó là truyện ngắn. Cảm hứng sáng tác cho các tác phẩm vẫn bắt nguồn từ những chuyến đi, những hồi ức và được in trong Tuyển tập truyện ngắn Trần Thanh Giao (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, năm 2002) gồm các truyện: Tôi thật không ngờ (1987); Trong vườn trúc (1993); Ánh trăng lóng lánh (1996); Góc vườn (1996); Chuyện xảy ra trên đường sắt Thống Nhất (1997); Chuyện một người bị kỉ luật (1997); Khoảnh khắc (1997); Anh Bảy Rô (1999)... Bên cạnh đề tài viết về chiến tranh cách mạng, truyện ngắn Trần Thanh Giao còn khắc họa chân dung những con người với nhiều khía cạnh của đời sống trong cuộc trở mình biến đổi của cả dân tộc. 

Những giây phút đẹp nhất, khó quên nhất trong đời ai cũng từng trải qua: thời áo trắng, tuổi của mơ hoa, trong sáng và hồn nhiên. Thời gian rồi cứ lặng lẽ trôi, cuộc đời mỗi người rồi trải qua những khúc quanh co, những đoạn gập ghềnh có khi êm ả, bằng phẳng nhưng cũng có khi dữ dội. Nhưng dù cơn xoáy của thời gian có mãnh liệt đến đâu thì ít nhất ai đó cũng từng một lần ngoái nhìn, nuối tiếc hay rưng rưng nhớ lại một thời đã qua, thời áo trắng đầy ắp tình bạn và cả những mối tình đầu khó quên. Tất cả những kỉ niệm đẹp của một thời mơ mộng được tái hiện qua 155 trang sách Thời áo trắng của Trần Thanh Giao (Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1995, tái bản năm 2003). Là những thanh niên còn khoác trên mình màu áo trắng tinh khôi nhưng ý thức dân tộc và lòng yêu nước của họ luôn khát khao rực cháy. Chiến tranh không chỉ có bom đạn, không chỉ có chiến công mà còn có những tình yêu - những tình yêu làm con người ta cao lớn hơn, đẹp đẽ hơn. Vì thế mà họ - những thanh niên trong Thời áo trắng đã vượt qua cảm xúc cá nhân và chia tay nhau để chiến đấu vì lí tưởng cách mạng. Đẹp hơn cả tình yêu trong sáng là sứ mệnh thiêng liêng của Tổ quốc "Cả nước đang đổ bao xương máu, mình trốn vô sách vở, chờ độc lập rồi giúp nước à? Phải góp phần dành độc lập, nếu cần, góp phần xương máu nữa chứ em!".

Bên cạnh các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký... Trần Thanh Giao còn tiếp tục niềm say mê văn chương của mình với tập tiểu luận - phê bình Ai tri âm đó (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2003) và cuốn khảo cứu Văn học thời gian 1975 - 2005 ở Thành phố Hồ Chí Minh (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008). Ở Ai tri âm đó, những cảm xúc thẩm mỹ qua thời gian được ông trình bày khá rõ nét với quan niệm riêng của mình. Có thể nói, qua tập tiểu luận - phê bình này người đọc sẽ nhận ra một Trần Thanh Giao sâu sắc và nhiều trải nghiệm với văn chương. Đó là tiếng nói tâm tư, tình cảm của cả một quá trình chiêm nghiệm những giá trị sâu sắc của đời sống văn chương qua nhiều giai đoạn.

Với tư cách là một cuốn sách lịch sử về văn học Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1975 - 2005, Trần Thanh Giao đã giải đáp những câu hỏi có liên quan đến quá trình phát triển cũng như những thành tựu chủ yếu của văn học Thành phố. Và qua đó ta có thể thấy được những đổi mới và những đóng góp lớn lao của văn học Thành phố Hồ Chí Minh khi hòa mình vào sự phát triển chung của nền văn học nước nhà trong giai đoạn này.

Lớp thời gian cứ kéo nhau mãi miết trôi. Bốn mùa cứ thay nhau luân chuyển, nhịp đời cứ thế vội vã trôi đi. Thế nhưng giữa cơn lũ thời gian ấy, Trần Thanh Giao vẫn không ngừng sáng tạo, trau chuốt cho những trang văn mới của mình bằng niềm đam mê mãnh liệt. Điều đó thể hiện ở một số sách của ông sắp được xuất bản trong thời gian tới như tập truyện ngắn Chuông chùa, tập bút ký Đảo ở biển Tây, tập tiểu luận - phê bình Cánh hạc và tiếng chuông. Chất văn chương trong ông vẫn luôn đề cao Chân-Thiện-Mỹ, giữ vững định hướng của chủ nghĩa nhân văn trong cái nhìn đầy sắc bén trước hiện thực cuộc sống.

Cùng với những nỗ lực lao động không mệt mỏi ở giai đoạn này, Trần Thanh Giao đã nhận được nhiều giải thưởng có giá trị. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, Trần Thanh Giao đã cống hiến hết mình cho niềm đam mê của ông. Qua mỗi chặng đường sáng tác, ông đều có những đóng góp đáng kể. Hành trình sáng tạo của ông là một tấm gương lao động mẫu mực cho lớp nhà văn trẻ noi theo.

PHẠM THỊ BÍCH THẢO

 

Trích từ luận văn tốt nghiệp đại học "Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Trần Thanh Giao" của sinh viên Phạm Thị Bích Thảo, do TS. Phạm Ngọc Hiền hướng dẫn, bảo vệ thành công tại ĐH Bình Dương năm 2011

 


Phamngochien.com - 16:30 - 29/09/2012 - Bài của văn nghệ sĩ          

Gửi bình luận