Còn đây là cuộc đời lắm thăng trầm của một nhân vật “độc”, với chuyện ngôn tình nhuốm màu bi thương: “…Đến chiều, vợ lão đã kiệt sức và gục đầu xuống vũng keo, từ đó không thốt lên được lời nào nữa. Đôi mắt ươn ướt của nàng nhìn lão một hồi lâu rồi nhắm lại dần, tắt thở. Lão đứng lặng giây lâu rồi đưa mõm hôn vợ lần cuối, chẳng may, mấy cọng râu dài dính vào vũng keo. Lão rùng mình xoay xở một hồi lâu mà vẫn không rút ra được… Lão gắng chịu đau và giật đứt mấy cọng râu đã bạc màu sương gió. Lão không muốn nhìn cái bẫy quỷ quái đó chút nào nữa và lầm lũi ra về. Trong lòng tràn ngập nỗi thương nhớ đầy vơi người vợ quá cố...”. Bút pháp nhân hóa đã làm cho Chuyện lão cố tổ Chuột sinh động và lôi cuốn.
Đọc các truyện ngắn của Phạm Ngọc Hiền, tôi nhớ đến chia sẻ của anh về quan niệm văn học: “Chấp nhận mọi khuynh hướng văn nghệ, miễn là nó không làm ảnh hưởng xấu đến pháp luật và đạo đức”.
Phần Ký cũng rất thú vị, bức tranh Chợ quê ngày tết, Chợ hoa đêm cuối năm, Xóm nhà trọ… được tác giả miêu tả rất sinh động. Giàu cảm xúc nhất có lẽ là tác phẩm Thuở ban đầu, viết buổi đầu đi học ở ngôi trường quê. “Thuở ấy, mùa tựu trường ở quê tôi bắt đầu bằng tiếng loa miệng của một ông già trong thôn. Ông cầm ống loa bằng thép cuộn lại đầu to, đầu nhỏ đi khắp thôn để thông báo: “A lô, a lô!... Làng trên xóm dưới nghe đây, nghe đây. Trường cấp 1 Hòa Đồng thông báo, đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày mai, toàn bộ học sinh phải có mặt tại điểm trường chính để dự lễ khai giảng năm học… Vào một đêm nọ gần tới ngày khai trường, ba tôi nói với ông nội: “Năm nay phải đưa bọn trẻ đến trường, thằng Hiền đã quá tuổi rồi còn gì nữa”. Thấy ông nội gật đầu tán thành, tôi giãy nảy: “Không, con không đi học, con sợ lắm!”. Ông nội nghiêm khắc bảo: “Lớn rồi, ai cũng phải đi học để biết, ban đầu sợ sệt nhưng sau sẽ quen thôi!”. Tôi đã từng thấy những thầy giáo dùng roi đánh học trò nên sợ phải đến trường lắm. Nhưng cũng sợ cả cái roi mây của ông nội giắt trên trần nhà nên tôi không dám phản đối quyết định quan trọng đó mà chỉ đứng ở góc nhà khóc thút thít…”.
Các trang viết của TS Phạm Ngọc Hiền ở phần Ký ắp đầy ký ức gắn với những cái Tết nơi quê nhà, với mảnh đất Tuy Hòa, với khu nội trú ở Trường THPT Trần Quốc Tuấn… Tình yêu, nỗi nhớ ẩn hiện trong những tác phẩm này. Và tình yêu thi ca hòa quyện vào tình quê hương, xốn xang trong chuỗi ký ức có tên Nỗi nhớ hội thơ Nguyên tiêu. “… Đêm Nguyên tiêu nào, tôi cũng có mặt trong đoàn người gõ gót thơ trên “Đường lên núi Nhạn quanh quanh…”… Nhưng Nguyên tiêu năm 2011, tôi không dự hội thơ trên núi Nhạn được. Ai cũng bảo: “Tiếc quá, sao không nán lại một ngày dự đêm thơ rồi hãy đi”. Lần này, tôi vào Sài Gòn gấp không chỉ vì lý do có lịch dạy mà còn để dự buổi giao lưu thơ tại Bến Nhà Rồng vào sáng 15 âm lịch. Tôi được mời lên khán đài giao lưu với các văn nghệ sĩ trẻ. Chiều đó, tôi tranh thủ viết bài Nguyên tiêu cho báo Phú Yên trong khi Phan Hoàng vội vã dẫn đoàn nhà văn TP Hồ Chí Minh bay ra Phú Yên dự đêm thơ. Người ta không phải gốc Phú Yên mà còn vượt 560km để đi dự đêm thơ trên núi Nhạn. Còn mình gốc Phú Yên mà không dự được! Dẫu đi làm ăn, sinh sống nơi đâu, những người con Phú Yên yêu thơ đều hướng về cổ tháp đêm rằm”.
Đọc Đời thực và mơ, tập sách riêng thứ bảy của Phạm Ngọc Hiền, độc giả phần nào cảm nhận được tâm hồn yêu văn chương của một tiến sĩ Ngữ văn, chuyên lý luận phê bình văn học.
TS Phạm Ngọc Hiền sinh năm 1971. Anh đang giảng dạy tại Trường đại học Sài Gòn, là hội viên Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh. Các tác phẩm đã xuất bản: tập thơ Nhớ mùa thu đã xa (2003), tập phê bình Những nẻo đường văn chương (2007), tập chuyên luận Tiểu thuyết Việt Nam 1945-1975 (2010, 2012, 2018), Thi pháp học (2016), Tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc độ thi pháp học (2018)… Anh được trao giải C của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2007 cho tập phê bình Những nẻo đường văn chương.
YÊN LAN