Cách viết tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt (Nguyễn Văn Khang)

GIẢI PHÁP VỀ CÁCH VIẾT, CÁCH ĐỌC  TỪ NGỮ VÀ TÊN RIÊNG NƯỚC NGOÀI TRONG TIẾNG VIỆT HIỆN NAY

                                                             Nguyễn Văn Khang

1. Toàn cảnh về cách viết, cách đọc từ ngữ và tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt hiện nay

1.1. Đối với từ ngữ nước ngoài

1.1.1. Nhìn ra thế giới, xét trên bình diện lí thuyết, các từ ngữ nước ngoài khi du nhập vào một ngôn ngữ thường có các cách xử lí như sau:

Về ngữ âm, có thể: 1) Mượn nguyên xi cách phát âm nước ngoài, tức là lặp lại nguyên cách phát âm từ ngôn ngữ cho vay sang ngôn ngữ đi vay; 2) Phỏng âm, tức là, cách phát âm của từ mượn trong nguyên ngữ chỉ là cơ sở cho việc tạo ra cách phát âm mới trong ngôn ngữ đi vay. Nguyên tắc chung của cách phỏng âm là làm sao càng gần sát với âm đọc của chúng trong ngôn ngữ cho vay càng tốt; 3)  Thay đổi hoàn toàn bằng vỏ ngữ âm của ngôn ngữ đi vay.

Về hình thái cấu trúc, có thể: 1) Giữ nguyên hình thái cấu trúc; 2) Thay đổi cho phù hợp với hình thái - cấu trúc của ngôn ngữ đi vay. Có thể nói đây là trường hợp khá phổ biến, vì, mỗi ngôn ngữ biến hình có những kiểu khác nhau về việc thể hiện giống, số, cách.

Về nội dung ngữ nghĩa, có thể: 1) Mượn toàn bộ nội dung ngữ nghĩa của từ mượn đó. Trường hợp này thường xảy ra ở từ đơn nghĩa hay các thuật ngữ khoa học; 2) Mượn một nghĩa hoặc một vài nghĩa của từ đa nghĩa; 3) Mượn và có những thay đổi nhất định nội dung nghĩa vốn có; 4) Mượn và trên cơ sở nghĩa mượn để phát triển nghĩa mới.

Về chữ viết, có thể: 1) Mượn hoàn toàn cách viết trong nguyên ngữ; 2) Thay đổi một phần cho phù hợp với cách đọc cách viết của ngôn ngữ đi vay; 3) Thay đổi hoàn toàn chữ viết của ngôn ngữ đi vay.

Tổng hợp lại, có thể thấy, có  mấy cách vay mượn từ vựng như sau:      

1) DÞch nghÜa (can - ke ng÷ nghÜa): Đây là phương thức dịch từ ngữ. Cách làm này cho thấy chỉ có nội dung (ngữ nghĩa) là được vay mượn, còn toàn bộ hình thức  bao gồm ngữ âm, chữ viết, hình thái cấu trúc là của ngôn ngữ đi vay. Truyền thống ngôn ngữ học gọi cách vay mượn này là cặn kẽ ngữ nghĩa (calque) hay dịch (loan translation). Ví dụ: ubermensch: superman,  weltanchannung: word-view (tiếng Đức mượn từ tiếng Anh); 电话  (điện thoại): telephone (tiếng Hán mượn từ tiếng Anh).

2) Phiên âm: Phương thức vay mượn từ vựng bằng cách dựa trên (phỏng theo) âm đọc của từ ngữ cho vay để ghi lại từ ngữ đó bằng cách đọc cách viết của ngôn ngữ đi vay. Tất nhiên là mỗi ngôn ngữ đều cố gắng xây dựng cho mình một phương thức phiên âm mang tính nguyên tắc.  Ví dụ: 

Đối với tiếng Nga, các từ được phiên âm sang tiếng Nga thường gắn với đặc điểm của tiếng Nga như đặc điểm ngữ âm, đặc điểm hình thái về giống, số, cách của từ tiếng Nga. Ví dụ: pop: поп, printer: притер laser disk: лазерний диск; show room:   шоурум.

Đối với tiếng Hán, có thể là phiên âm và có thể là sự kết hợp phiên âm và dịch nghĩa, kết hợp giữa phiên âm với việc thêm yếu tố chỉ loại: whisky: whisky: 威士忌; 因特网: internet,  tank : 坦克车.

3) Chuyển tự: Phương thức này  được thực hiện do giữa các ngôn ngữ không cùng hệ văn tự. Chẳng hạn, sự vay mượn giữa tiếng Anh (thuộc hệ chữ cái Latinh) với tiếng Nga (ngôn ngữ  thuộc hệ chữ Kirin). Ví dụ: perestroika: перестройка, glasnost: глсност.

 4) M­în nguyªn d¹ng cña nguyªn ng÷:  C¸ch vay m­în nµy thÓ hiÖn ë h×nh thøc ch÷ viÕt: sö dông nguyªn c¸ch viÕt chÝnh t¶ ®¬n vÞ tõ vùng cña ng«n ng÷ ®i vay. Cßn c¸ch ®äc th× cè g¾ng däc s¸t víi c¸ch ®äc cña nguyªn ng÷.

1.1.2. Nhìn về Việt Nam, có thể thấy, tiếng Việt đã sử dụng tất cả các kiểu vay mượn trên để xử lí cá từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt:

- Dịch các từ ngữ nước ngoài sang tiếng Việt. Ví dụ: nút cổ chai: bottle neck; cáo giả/ mượn oai hùm: 狐假虎威.

Đáng chú ý là tiếng Việt đã sử dụng lợi thế của cách đọc Hán Việt - một bộ phận của hệ thống ngữ âm tiếng Việt để xử lí đối với các từ mượn Hán và các từ Âu - Mỹ mượn gián tiếp qua tiếng Hán hoặc trực tiếp tiếng Việt (ví dụ: hòa bình, hạnh phúc, cổ tức, cổ phần, trái phiếu).

 - Viết nguyên dạng: Giữ nguyên cách viết của tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc gián tiếp qua tiếng Anh, tiếng Pháp (còn cách đọc thì phỏng theo âm, vì thế một từ ngữ có thể có nhiều biến thể cách đọc). Ví dụ: worldcup, stress, heroin, marketing, computer, pressing, hello. Đáng chú ý là,  một số ít các từ ngữ Hán cũng đã bắt đầu xuất hiện trong văn bản tiếng Việt dưới dạng nguyên dạng phiên âm Latinh (gongfu, wushu).

- Chuyển tự: được sử dụng đối với một số ít từ ngữ tiếng Nga.

- Phiên âm, nếu như trước đây - tức là những năm 60, 70 của thế kỉ XX người ta chỉ nhắc đến "phiên âm"  thì gần đây lại xuất hiện khái niệm "phiên chuyển" - đó là sự kết hợp giữa phiên âm và chuyển tự. Ví dụ:

Phiên âm: ca-vát/ cra-vát: (cravate) cao-bồi (cowboy);  phiên chuyển  valentine: va-len-tin (nghiêng về chữ), va-len-thai (nghiêng về âm đọc).

Cả hai kiểu phiên trên (phiên âm và phiên chuyển) được thể hiện như sau :

- Phiên - viết rời, gồm:  Viết rời, có dấu chữ, dấu thanh và có gạch nối (Ví dụ: xì-căng-đan, mít-tinh, cà-phê); Viết rời có dấu chữ, dấu thanh và không có gạch nối. (Ví dụ: xì căng  đan, mít tinh, cà phê).

- Phiên - viết liền, gồm : Viết liền có dấu chữ, dấu thanh. (Ví dụ: x×c¨ng®an, mÝttinh, cµphª); Viết liền không có dấu thanh. (Ví dụ:  xicăngđan, mittinh, caphê).

1.1.3.  Thảo luận về các kiểu xử lí từ nước ngoài  trong tiếng Việt

1) Mỗi cách xử lí trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Chẳng hạn:

a. Đối với các từ mượn Hán, ngoại trừ một số từ Hán Việt cổ, từ Hán phỏng âm phương ngữ Hán còn thì hầu hết các từ Hán xuất hiện trong tiếng Việt đều bằng âm đọc Hán Việt (viết bằng chính tả tiếng Việt). Cách đọc Hán Việt là một bộ phận của ngữ âm tiếng Việt và từ Hán Việt là một bộ phận của từ vựng tiếng Việt, cho nên, việc sử dụng cách đọc Hán Việt cho các từ mượn Hán là điều không phải bàn cãi. Điều còn lại cần phải cân nhắc là làm sao tránh được sự lạm dụng. Thứ nữa, trước đây, có một số từ Âu Mĩ mượn qua tiếng Hán bằng Hán Việt nay đang có xu hướng được thay thế nhờ cách mượn trực tiếp từ các ngôn ngữ này theo cách phiên hoặc nguyên dạng. Đây là lí do tạo nên sự song tồn, gây nên sự xung đột, tranh chấp về chức năng giữa các biến thể này. Ví dụ:  vi sinh tố/ vi-ta-min/ vitamin (Anh)/ vitamine (Pháp), thế vận hội/ ô-lim-píc/ olimpic; dưỡng khí/ô-xy/ oxy/ oxygen (Pháp) .

b.  Dịch các từ của tiếng nước ngoài ra tiếng Việt là cách mượn lí tưởng. Đây có thể coi là điển hình của sự Việt hoá. Cách này vẫn đang được sử dụng, tuy có phần giảm đi so với trước đây. Lí do là vì, số lượng từ chứa đựng thông tin ngày một nhiều, xuất hiện liên tục, trong khi đó thông tin thì lại yêu cầu cập nhật hằng ngày mà việc chuyển dịch, nhất là chuyển dịch thuật ngữ là một công việc không hề giản đơn. Cũng có ý kiến cho rằng, có một từ có tính thuật ngữ không dễ dàng dịch sang tiếng Việt được, vì từ dịch không chuyển tải hết được nội dung ý nghĩa. Ví dụ, một số người cho rằng dùng    maketinh chính xác hơn tiếp thị, dùng stress chính xác hơn căng thẳng.


c. Cách phiên có ưu điểm  lớn nhất là hoà nhập được vào với tiếng Việt,  người  Việt ở trình độ phổ thông có thể đọc được, viết lại được, nhớ được. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là chọn cách đọc nào để phiên và phiên như thế nào cho thống nhất. Chẳng hạn, những câu hỏi đặt ra là:

- Phiên theo "nguyên ngữ, nào? Ví dụ: menu, turbin/ turbine, almanac/ amanach, chocolateb/ chocolat, collection sẽ phiên theo tiếng Anh hay theo tiếng Pháp: men-nu/ me-niu/ mơ-nuy, tua-bin/ tuốc-bin/ tuyếc-bin, an-ma-nác/ an-ma-nách, chô-cô-lết/ sô-cô-la/ súc-cù-là, cô-lếch-sừn/ con-léc-xi-ông? Đây chính là nguyên nhân dẫn tới sự không thống nhất, tạo ra nhiều biến thể của cùng một tên riêng.

- Khi phiên thì tách âm tiết theo cách nào? Ví dụ:

Trường hợp hosting có hai cách đọc là hót-sinhhót-tinh: cách đọc hót-sinh chú trọng tới s (mà bỏ t), còn cách đọc hót-tinh thì lại chú trọng đến t (mà bỏ s).

Trường hợp villa có hai cách đọc là vi-lavin-la: cách đọc vi-la được hình thành bằng cách tách vi/lla, còn cách đọc vin-la được hình thành bằng cách tách vil/ la (chuyển l ở phía trước thành n, còn l ở phía sau thì giữ nguyên).

Trường hợp delete có 3 cách đọc là đi-lít, đi-létđen trong đó hai cách đọc đi-lít, đi-lét được hình thành bằng cách tách de/ lete, còn cách đọc đen được hình thành bằng cách tách del/ (và bỏ phân sau ete).

- Kết hợp giữa phỏng âm và đọc theo "cách đọc tiếng Việt" là như thế nào? Ví dụ: bowling, mobile phone có thể phiên thành bâu-linh/ bô-linh, mô-bai phôn/ mô-bi phôn.

Đi vào từng kiểu nhỏ trong cách phiên lại có thể thấy, mỗi một cách phiên có những "được - mất" khác nhau. Chẳng hạn:

- Phiên âm thì gần với cách đọc nguyên ngữ, còn phiên chuyển (kết hợp giữa âm với chữ) thì lại sử dụng được lợi thế về mặt văn tự của người Việt nhưng lại "xa" với cách đọc theo nguyên ngữ.

- Phiên theo cách viết có dấu chữ và có gạch nối tạo ra được mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố, tạo nên tính chỉnh thể của một từ, giúp cho người ở bậc phổ thông có thể đọc được và viết được, thậm chí nhớ được. Song, đối với hình thức của cả văn bản thì không phù hợp  cho lắm và cũng không kinh tế, tiết kiệm cho ấn phẩm (vì có gạch nối).

- Phiên theo cách viết có dấu chữ và không có có gạch nối thì ngoài ưu điểm như trên còn có ưu điểm nữa là phù hợp về hình thức văn bản tiếng Việt, kinh tế cho ấn phẩm (vì không có gạch nối), nhưng lại khó khăn trong nhận diện "tính hoàn chỉnh" của từ.

- Phiên theo cách viết liền có ưu điểm về nhận diện từ, kinh tế cho ấn phẩm, nhưng ở một số trường hợp sẽ gặp khó khăn trong việc nhận diện âm tiết khi đọc.

- Phiên theo cách viết liền không dấu sẽ còn có thể gặp phải một số trường hợp khó đọc hoặc có thể đọc theo nhiều cách khác nhau.

d. Viết theo nguyên dạng có ưu điểm lớn nhất là đảm bảo được "tính chính xác" của từ, nhất là đối với các thuật ngữ và tiện lợi cho người xử lí thông tin (nhất là đối với các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay cần phải xử lí nhanh thông tin để đưa tin). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất gặp phải là, đối với người ở trình độ phổ thông không thể "tự đọc" lên được và nếu có viết lại thì chỉ còn cách là "vẽ lại chữ". Ngay cả những người gọi là "có trình độ" đi chăng nữa thì biết được ngoại ngữ này chắc gì đã biết ngoại ngữ kia, thậm chí ngay cả "biết" thì trong nhiều trường hợp chưa chắc đã đọc lên được, viết lại được. Bên cạnh đó còn khá nhiều nội dung đặt ra. Chẳng hạn:

- Viết theo nguyên ngữ nào, tức là nguyên dạng của ngôn ngữ nào? Nguyên ngữ là tiếng Anh hay là tiếng Pháp, hay tiếng Anh, tiếng Pháp chỉ là ngôn ngữ trung gian?

- Gắn với cách viết là một khó khăn đặt ra đối với cách đọc: đọc phỏng âm theo tiếng Anh hay tiếng Pháp? Kết hợp giữa đọc phỏng âm với cách đọc theo tiếng Việt, như thế nào?

2) Có thể khẳng định rằng, so với các từ mượn khác thì các từ mượn Hán đang tồn tại và hoạt động trong hệ thống từ vựng tiếng Việt với số lượng lớn nhất (bao gồm các từ Hán Việt cổ, Hán Việt, Hán Việt Việt hoá và các từ mượn qua con đường phương ngữ khẩu ngữ). Tiếp đó là các từ ngữ có nguồn gốc từ các ngôn ngữ Âu - Mĩ mà chủ yếu là tiếng Pháp (trước đây) và tiếng Anh (hiện nay). Các từ ngữ mượn này đang hoạt động trong tiếng Việt ở các mức độ khác nhau: Có những đơn vị từ vựng đã được đồng hoá và hoạt động như đơn vị từ vựng tiếng Việt thực sự; Có những đơn vị từ vựng xuất hiện lâm thời rồi không thấy xuất hiện nữa; Có những đơn vị xuất hiện dưới dạng các biến thể khác nhau về cách đọc và cả cách viết; Có cả sự xung đột, cạnh tranh khốc liệt giữa các từ ngoại lai với từ Việt và giữa các từ mượn khác nhau (vụ bê bối-xicăngđan, thế vận hội-ôlim/lem-pic; dưỡng khí-ôxy); ...Tất cả đã dựng nên một bức tranh phong phú, đa tạp nhưng rất phù hợp với bối cảnh ngôn ngữ - xã hội của tiếng Việt hiện nay.

 3) Không thể phủ nhận vai trò của các từ ngữ mượn đối với vốn từ tiếng Việt: Các từ ngữ mượn Hán xuất hiện trong tiếng Việt khi mà hệ thống từ vựng tiếng Việt đã tương đối ổn định về vốn từ cơ bản, do đó một mặt chúng mang vào những khái niệm mới của nền văn hoá văn minh Trung Hoa, mặt khác chúng xuất hiện để đảm nhiệm vai trò của các từ ngữ văn; Các từ ngữ mượn Pháp xuất hiện trong tiếng Việt với vai trò chủ yếu là mang tải những khái niệm mới của nền văn hoá Pháp và văn minh phương Tây (đặc biệt khoa học - kĩ thuật - công nghệ); Các từ tiếng Anh do xuất hiện trong tiếng Việt ở bối cảnh hội nhập, toàn cầu hoá nên vấn đề quốc tế hoá từ vựng không thể không đặt ra. Chính những đặc điểm này đã làm cho các từ mượn (tiếng) Pháp và các từ (tiếng) Anh có vai trò, cách sử dụng khác với từ Hán Việt và giữa từ mượn Pháp với từ  tiếng Anh cũng có vai trò, cách sử dụng khác nhau.

 1.2. Đối với tên riêng nước ngoài

 1.2.1. Thực trạng về tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt

 Cách xử lí tên riêng nước ngoài ở các ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng cũng tuân thủ theo 4 cách xử lí từ ngữ nước ngoài, có khác chăng là ở chính tả (viết hoa) và việc chọn giải pháp nào cho phù hợp với tên riêng. Có thể khái quát cách xử lí tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt như sau:

- Đối với tên riêng tiếng Hán truyền thống sử dụng âm Hán Việt, nay đồng thời lại sử dụng thêm cả phiên âm Latinh Hán. Ví dụ: Bắc Kinh/ Beijing;  Tập Cận Bình.

- Một số tên riêng là địa danh được dịch ra tiếng Việt (dịch toàn bộ hoặc bộ phận). Trường hợp này không nhiều nhưng không phải là không có, đó là một số địa danh.  . Ví dụ:  Mũi Hảo Vọng < The Cape of Good Hope; BiÓn §en < H¾c h¶i < 黑海 <Чёрное море;  Th¸i B×nh D­¬ng < 太平洋 . Ví dụ: Mũi Hảo Vọng , [sông] Thêm, Tân Ghinê

- Sử dụng cách phiên:

Phiên-viết rời, gồm: Viết rời có dấu chữ, dấu thanh và có gạch nối (Niu-oóc, Ken-nơ-đi, Bu-sơ, Vác-sa-va, A-rập/ Ả-rập); Viết rời có dấu chữ , dấu thanh và không có gạch nối ( Niu Oóc, Ken Nơ Đi, Ả Rập).

 Phiên-viết liền, gồm:  Viết liền có dấu chữ, dấu thanh ( Arập, Clintơn, Vácsava);. Viết liền không có dấu thanh ( Arâp,  Niuooc).

- Viết nguyên dạng cho các tên riêng Âu Mĩ. Ví dụ: Bush, New York, Italy; Viết nguyên dạng phiên âm Latinh của tiếng Hán cho các tên riêng Trung Quốc. Ví dụ: Li Tie, Hao Haidong.

- Các tên riêng tiếng Nga: vừa dùng Hán Việt vừa dùng phiên vừa dùng chuyển tự vừa dùng cách viết của tiếng Anh. Ví dụ: Mạc Tư Khoa , Mát-xcơ-va, Moskva , Moscow.

 


Phamngochien.com - 19:51 - 13/04/2013 - Bài của văn nghệ sĩ          

Gửi bình luận