Học Văn để làm gì ? (Phạm Ngọc Hiền)

 

    Môn Văn là bộ môn xuất hiện sớm nhất trong nhà trường Việt Nam và đến bây giờ vẫn được xem là bộ môn chính. Tuy nhiên, ngày nay, môn Văn không còn sức hấp dẫn với đa số HS nữa. Khi hỏi các HS vì sao không thích học Văn, không chọn thi ĐH ngành Văn, HS hỏi lại : học Văn để làm gì ? Đây quả thực là một câu hỏi lớn làm cho những ai muốn cách tân nền giáo dục nước nhà cần phải suy nghĩ nghiêm túc.

 

1. Ngày xưa học Văn để làm gì ?

 

   Thời trung đại, môn Văn chiếm vị trí số một trong nhà trường phong kiến Việt Nam. Người ta đi học, trước hết là để biết viết, biết đọc rồi nghiền ngẫm các kinh sách cổ điển để học đạo lý làm người, học phép tắc viết văn, làm thơ... Dạy Văn là dạy đạo đức và năng lực thưởng thức cái đẹp của văn chương. Người giỏi văn chương có nhiều cơ may thi đậu các kỳ thi rồi ra làm quan. Không làm quan, làm thầy thì về nhà ngâm nga thơ phú cũng xem như đạt được mục đích học tập của đời người.  

     Trong khi giáo dục phương Đông lẩn quẩn trong cái tháp ngà văn chương thì giáo dục phương Tây đã tính đến những mục tiêu thực dụng. Từ thời cổ đại, trường học Hy Lạp không chỉ có môn Ngữ văn mà còn có cả Khoa học tự nhiên và Võ thuật... Trong nhà trường Pháp, môn Văn chương có chức năng rèn luyện năng lực nghe, nói, đọc, viết, sau đó là khả năng cảm thụ nghệ thuật và giáo dục nhân sinh quan cho HS. Từ đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã được tiếp thu quan điểm dạy học Văn này qua SGK Văn chương Pháp. Sau 1945, Việt Nam chuyển sang học tập mô hình Liên Xô và coi trọng mục tiêu đào tạo con người mới XHCN.

    Ở miền Bắc sau 1954, Đảng xem văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, việc dạy học văn cũng hướng tới các mục tiêu chính trị. Những bài nghị luận văn học thời ấy thường rất gần gũi với những bài chính trị và lịch sử. Cũng trong giai đoạn 1955 - 1975, ở miền Nam, mục đích dạy học Văn không đặt nặng việc tuyên truyền chính trị. SGK Việt văn chỉ định hướng HS phân tích những vấn đề luân lý và nghệ thuật. Các bài nghị luận xã hội được chú trọng, xoay quanh những vấn đề đạo đức truyền thống. Nhìn chung, mục tiêu dạy học Văn hướng tới triết lý giáo dục của chính phủ Việt Nam cộng hòa: Nhân bản - Dân tộc - Khai phóng.

     Từ 1975, việc dạy học Ngữ văn đi vào một mục tiêu chung. Sách Tập đọc cấp I chủ yếu dạy HS biết đọc, biết viết. Nhưng càng lên cao, môn Ngữ pháp càng ít được chú trọng, thay vào đó môn Văn được đề cao vì nó giáo dục tư tưởng cách mạng có hiệu quả rõ rệt nhất. Từ thập niên 90 trở đi, môn Ngữ văn mới hình thành ba phân môn rõ ràng: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Mục tiêu nhân văn và thực dụng của môn Ngữ văn đã bắt đầu hình thành. Tuy nhiên, phải từ sau năm 2000, với sự xuất hiện của SGK Ngữ văn theo hướng tích hợp thì môn này mới bộc lộ là "bộ môn có tính chất công cụ". Từ đây, việc dạy học Ngữ văn ở Việt Nam đã bắt đầu hòa nhịp cùng với mục tiêu chung của việc dạy Ngữ văn trên thế giới.    

 

2. Ngày nay học Văn để làm gì ?

 

     Ở cấp độ vĩ mô, mục tiêu dạy học Ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Đi vào cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính sau: 1. Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học; 2. Hình thành và phát triển ở HS các năng lực sử dụng tiếng Việt, biết ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống; 3. Bồi dưỡng cho HS tình yêu tiếng Việt, văn hóa, yêu gia đình, đất nước... Mục tiêu dạy học Ngữ văn cũng được cụ thể hóa ở từng cấp học, lớp học, phân môn...

     Ở cấp độ vi mô, mục tiêu dạy học được cụ thể hóa đến từng bài học, tiết học. Phần đầu mỗi bài học trong SGK đều có ghi mục tiêu cần đạt. Tuy nhiên, quan điểm dạy học Ngữ văn thường không có sự thống nhất cao giữa các thời kỳ, giữa các tác giả soạn SGK, các cấp học, vùng miền, giữa các cấp lãnh đạo chuyên môn và các GV trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra còn phải tính đến sự khác nhau rất lớn giữa "nói" và "làm", lý thuyết và thực tiễn. Nhìn vào chương trình SGK, giáo án và qua phát biểu chỉ đạo của các chuyên viên, người ta thấy việc dạy và học Ngữ văn ngày nay có vẻ rất "đổi mới", "hiện đại" nhưng kỳ thực, lối dạy cũ vẫn thịnh hành.

 

3. Trong tương lai, nên dạy học Văn như thế nào ?

 

      Chương trình SGK Ngữ văn hiện hành đã tạo ra bước đột phá lớn, rút ngắn đáng kể khoảng cách tụt hậu của ta so với thế giới. Nhưng không phải thành tựu nào của thế giới ta cũng vận dụng được trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Do có nhiều sự khác biệt về thể chế chính trị, trình độ tiếng Anh của người soạn sách, tâm lý tiếp nhận của GV và HS, giao lưu cách trở về địa lý... Tuy nhiên, vấn đề chỉ còn là thời gian, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển đến mức độ cao thì dẫu khoa học cơ bản và văn chương có muốn thu mình trong tháp ngà cổ kính cũng không thể được.

      Mục tiêu của việc dạy học Ngữ văn được thấm nhuần trong các khâu của quá trình giáo dục như tên gọi môn học, nội dung SGK, phương pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá, sự vận dụng vào cuộc sống... Trước hết, mục tiêu môn học được thể hiện ở tên gọi môn học. Ở Việt Nam, tên gọi môn Văn đã thay đổi nhiều lần và đến bây giờ được gọi là Ngữ văn, tức là ghép hai phân môn Ngôn ngữ và Văn học. Tuy nhiên, người ta vẫn quen gọi ngắn gọn là môn Văn, khoa Văn, bỏ mất chữ "ngữ" hoặc "tiếng". Việc coi trọng dạy học tác phẩm thơ văn cũng là một truyền thống ở Nga và Trung Quốc. Tuy nhiên, ở phần lớn các nước trên thế giới hiện nay, người ta không gọi là môn Văn học mà gọi theo tên tiếng mẹ đẻ. Chẳng hạn, HS các nước Anh, Mỹ, Canada, Úc... học môn Tiếng Anh (English, English language art). HS Thái Lan học môn Tiếng Thái, Nhật Bản học Tiếng Nhật, tức là tương đương với cách gọi môn Tiếng Việt ở nước ta. Bởi vậy mà khoảng năm 1995, ở Việt Nam có ý kiến đề nghị gọi chung ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Làm văn là môn Tiếng Việt tuy nhiên, bị nhiều người phản đối. Trong quan niệm truyền thống ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm Văn đồng nghĩa với văn hóa, bao hàm cả văn chương và ngôn ngữ. Có khi người ta dùng "văn" để chỉ văn chương, có khi dùng "văn" để chỉ "tiếng" (Anh văn, Pháp văn, Nga văn, Việt văn, quốc văn...). Gọi tên môn "Văn" không ổn, gọi môn "Tiếng" không xong, cách gọi tên môn học Ngữ văn (giống như SGK Trung Quốc hiện nay) là thích hợp. Nó nhắc nhở mục tiêu dạy học toàn diện, không chỉ dạy chữ (ngôn ngữ) mà còn dạy người (văn chương).

    Về cấu trúc chương trình, trước đây, ta xây dựng theo hướng kết hợp (combination) với ba phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn. Tuy nhiên, phần lớn các nước tiên tiến đều xây dựng chương trình theo hướng tích hợp (integration), tức là học chung một SGK, lấy trục ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ làm nòng cốt. Nội dung học bao gồm các kiến thức nghe, nói, đọc, viết. Môn Văn không làm thành trục chính nhưng tác phẩm thơ văn, với tư cách là ngữ liệu, vẫn có mặt trong suốt bốn kỹ năng trên. Ở nước ngoài, có hai cách để dạy cảm thụ tác phẩm văn chương: một là tác phẩm văn chương được đặt vào trong bộ môn Nghệ thuật để dạy chung với mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh... Hai là, văn bản thơ văn sẽ đặt nằm chung với các loại văn bản khác trong bộ môn tiếng mẹ đẻ. Dù nằm trong môn nào, tác phẩm văn chương vẫn không xa rời các chức năng quan trọng của mình là bồi dưỡng các giá trị Chân - Thiện - Mỹ và hình thành các kiến thức, kỹ năng văn hóa nghệ thuật cho HS.

     Xét về nội dung, môn Ngữ văn có ba cụm kiến thức lớn: Ngôn ngữ, Văn chương và Văn hóa nghệ thuật. Nhiệm vụ của ngôn ngữ là cung cấp cho HS những kiến thức về văn phạm, khả năng giao tiếp và biết viết các loại văn bản. Nhiệm vụ của môn Văn chương là cung cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử văn học, lý luận văn học nhưng quan trọng nhất là kỹ năng phân tích, đánh giá và sáng tạo tác phẩm. Mục tiêu dạy học Văn phải thích ứng với thời đại, dạy môn Văn là để rèn năng lực cảm thụ, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật nói chung. Ở nhiều nước trên thế giới, HS không chỉ biết phân tích thơ văn mà còn biết phân tích một vở kịch, bộ phim, một bức tranh, bản nhạc... Trong khi HS Việt Nam rất mù mờ trong việc cảm nhận và thẩm bình tác phẩm nghệ thuật.

    Mục tiêu dạy học cũng phản chiếu trong phương pháp dạy học. Vấn đề quan trọng cần xác định ở đây là: trong quá trình dạy học Ngữ văn, ai là nhân tố trung tâm: thầy hay trò ? Nếu như lấy học trò làm trung tâm thì mọi hoạt động giảng dạy phải hướng tới nhu cầu và năng lực của học trò. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, phương châm "lấy HS làm trung tâm" đã có từ lâu. Còn ở Việt Nam, khoảng 10 năm trở lại đây mới có vài người chủ trương theo hướng này nhưng bị sự kháng cự mạnh mẽ của giới giáo chức bảo thủ. Trong tương lai, khi nền kinh tế thị trường phát triển, thì dĩ nhiên, vai trò của người của người học sẽ được tăng cường, nhất là HS ở các trường tư. Phương pháp dạy học cũng sẽ hướng tới thị hiếu của người học. Những kiến thức hàn lâm xa rời thực tế và lạc hậu sẽ bị gỡ bỏ dần, thay vào những bài học hấp dẫn, gắn bó tới lợi ích thiết thực của HS.  

     Trong sản xuất, khâu cuối cùng quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp là chất lượng đầu ra của sản phẩm. Cái quan trọng của quá trình giáo dục là đầu ra của HS. Tùy vào từng cấp học mà mục tiêu phấn đấu khác nhau. Có nhiều loại mục tiêu: cá nhân - xã hội, GV - HS... Tuy nhiên, từ phía nhà giáo dục, mục tiêu cuối cùng của việc dạy học Ngữ văn trong suốt bậc học phổ thông là giúp cho HS ra đời có những kiến thức cơ bản về văn hóa, văn học, có khả năng cảm thụ và đánh giá các tác phẩm nghệ thuật. Có khả năng hiểu mình, hiểu người, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau để chung sống, chung làm trong cộng đồng. HS được hoàn thiện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, từ đúng đến hay, biết mạnh dạn giao tiếp có hiệu quả trước công chúng, biết soạn thảo các loại văn bản cần thiết trong cuộc sống và trong công việc. Nói chung, việc dạy học môn Ngữ văn phải hướng tới mục tiêu chung của giáo dục thế giới mà tổ chức UNESCO đề xướng: "Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình".

     Ở bậc ĐH, mục tiêu học tập của SV là rèn luyện chuyên môn tốt để ra trường có việc làm thích hợp và ổn định, có cuộc sống hạnh phúc. Hiện nay, ngành Ngữ văn đang gặp nhiều khó khăn do ít người theo học, nhiều trường ĐH dân lập phía Nam và các trường CĐSP địa phương không tuyển sinh được ngành Ngữ văn. Ngay cả ở những trường ĐH công lập lớn, số lượng thí sinh đăng ký vào ngành Ngữ văn cũng ít dần, tỷ lệ chọi giảm, chất lượng đầu vào ngày càng kém. Tình trạng này đã khiến cho nhiều trường ĐH phải thay đổi lại mục tiêu đào tạo và tên gọi của ngành. Một số trường đổi tên khoa Ngữ văn, nhập nhiều ngành lại thành: "khoa Xã hội và nhân văn", "khoa Sư phạm Khoa học Xã hội", "khoa Ngữ văn và truyền thông"... Một số trường giữ nguyên tên gọi Ngữ văn nhưng giảm bớt những kiến thức hàn lâm và định hướng cho SV học thêm các bộ môn sư phạm, báo chí xuất bản, hành chính văn phòng... Điều đó cho thấy rằng, nhiều khoa Ngữ văn đang có những động thái thay hình đổi dạng để thích nghi với thời đại mới.

     Sở dĩ SV vào ngành Ngữ văn ngày càng ít là vì học ngành này khó xin việc làm. Cái khó khăn này xuất phát từ mục tiêu dạy học Văn cổ lỗ vẫn còn tồn tại dai dẳng đến bây giờ. Nhiều người quan niệm rằng, SV ngành Văn chỉ học ba thứ thơ văn vớ vẩn của những nhà thơ nghèo, mộng mị hão huyền và... không bình thường. Mà thời bây giờ, không có công ty nào tuyển dụng những SV giỏi thơ phú, những nàng và chàng nghiện đọc tiểu thuyết. Các doanh nghiệp chỉ tuyển những người biết soạn thảo thành thạo các loại văn bản, có khả năng giao tiếp tốt, có tài PR, diễn thuyết quảng cáo sản phẩm để tăng lợi nhuận cho công ty. Thực ra, công việc văn phòng và truyền thông quảng cáo cũng là chuyên môn của cử nhân Ngữ văn. Nhưng vấn đề là các trường ĐH phải đào tạo sao cho SV của mình thích ứng nhu cầu của thời đại công nghiệp. Giảm bớt những kiến thức lạc hậu và xa rời thực tế, đưa môn Văn xích lại gần với đời sống thực tại. Tăng cường thời lượng cho ngôn ngữ học ứng dụng. Khoa Ngữ văn phải gắn kết với các cơ quan, công ty văn hóa, trường học... coi như đó là môi trường thực nghiệm và sử dụng sản phẩm đào tạo.  

     Nói tóm lại, mục tiêu học tập ngành Ngữ văn trong thời đại mới không phải là học "biết để chơi" mà là "biết để làm". Môn Ngữ văn không chỉ là môn "bồi dưỡng tâm hồn" mà quan trọng hơn là môn "công cụ" để HS có thể vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học ứng dụng vào trong cuộc sống và công việc. Quá trình dạy Ngữ văn phải hướng tới lợi ích của người học. Chỉ khi nào người học hứng thú và thấy được lợi ích thiết thực của môn học thì mục tiêu dạy học Ngữ văn của các nhà giáo dục vạch ra mới đạt hiệu quả như mong muốn.

 

PHẠM NGỌC HIỀN

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Bộ Quốc gia giáo dục - Dự thảo chương trình Trung học tổng hợp, S. 1971

2. Bộ Giáo dục và đào tạo - Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, NXB Giáo dục, H. 2006.

3. Bộ Giáo dục và đào tạo - Tài liệu bồi dưỡng GV thực hiện chương trình, SGK lớp 10 THPT môn Ngữ văn, NXB GD, 2006.

4. Bộ Giáo dục và đào tạo - Tài liệu bồi dưỡng GV thực hiện chương trình, SGK lớp 11 THPT môn Ngữ văn, NXB GD, 2007.

5. Nguyễn Tiến Đạt - Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo trên thế giới (2 tập) - NXB Giáo dục, H. 2006 - 2007.

6. Lê Sử - Một số vấn đề quan niệm dạy học - www. Lamdong.dayhoc.vn

7. Đỗ Ngọc Thống -  Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở - NXB GD, 2002.

8. Đỗ Ngọc Thống - Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn THPT - NXB Giáo dục, H. 2006

 


Phamngochien.com - 09:04 - 15/04/2012 - Bài của Phạm Ngọc Hiền          

Gửi bình luận