Tôi đến Huế lần đầu vào khoảng cuối năm 1993, trong đoàn của SV Ngữ văn khóa 13 - ĐHSP Quy Nhơn. Chúng tôi ở lại Huế tới bốn ngày và tham quan khá tường tận các di tích lịch sử cố đô. Anh hướng dẫn viên du lịch là người Huế, cử nhân Sử học, có kiến thức lịch sử khá uyên thâm. Điều đáng chú ý là, anh không chửi bới tổ tiên mà tỏ lòng thành kính sâu xa với giọng ngọt ngào, thâm trầm theo đúng phong cách Huế. Tôi học được ở anh những kiến thức lịch sử rất bổ ích, thông cảm với nỗi đau của tiền nhân, yêu hơn đất cố đô. Sau khi về lại Quy Nhơn, tôi làm bài thơ này và có đăng trong tập Nhớ mùa thu đã xa - NXB Văn hóa thông tin, H. 2003. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
TÂM SỰ VỚI CỐ ĐÔ
Ngày ra đi anh hẹn sớm quay về
Mua tặng em nón bài thơ xứ Huế
Lần đầu tiên sao thấy quen đến thế
Ngỡ như là đã gặp Huế đâu đây
Cung điện xưa của vua chúa đây rồi
Lộng lẫy ngai vàng, cột son, rồng chạm
Sờ vách đá những đền đài cổ kính
Nghe hồn xưa đất nước chạm vô lòng
Lăng Tự Đức đường co khúc ẩn
Tường rêu phong quạnh quẽ đến nao lòng
Hồ bán nguyệt nước trời đầy ắp đó
Có bao giờ vua rửa hết oan khiên ?
Từ Pháp đến, trời Việt Nam xáo động
Gươm giáo lao đao kháng cự súng, tàu đồng
Hồn Đại Việt dẫu ngàn đời ngút tỏ
Đành phải dằn lòng trước hòa ước Ác - măng
Có nỗi đau nào hơn thế một ông vua
Phải mang tiếng bán mình làm nô lệ
Gia tộc chia bè, dân tình ai oán
Nghìn năm sau còn nghe tiếng Vạn Niên
Lịch sử cha ông chất chồng bao bi kịch
Dẫu có lúc êm đềm như mặt nước Hương Giang
Nếu yêu nước xin ai đừng vốc nước
Làm kinh thành xô động bóng nghìn năm
Mây huyền thoại trôi nhanh không trở lại
Những lăng tẩm trầm hùng chìm mặc dưới hoàng hôn
Cố đô hỡi xin Người yên giấc ngủ
Những nỗi đau đời để lại cháu con lo
Chia tay Huế chẳng mua được gì cho em cả
Chỉ mang về chút Trầm - Mặc - Cố - Đô
1994
.